img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện)| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức

Tác giả Hoàng Uyên 09:19 21/08/2024 3,847 Tag Lớp 9

Dưới đây là phần Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện)| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức mà VUIHOC đã chuẩn bị cho các em. Thông qua những mẫu bài viết tham khảo, chắc hẳn các em có thể phần nào nắm được cách viết một bài văn nghị nghị luận phân tích về một tác phẩm văn học (truyện) sao cho hay và hấp dẫn.

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện)| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện)

1. Viết bài văn phân tích tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.

Bài tham khảo 1:

Mọi thứ theo thời gian đều sẽ bị bào mòn và băng hoại. Chỉ có duy nhất nghệ thuật, mình nó sẽ không bao giờ thừa nhận cái chết. Có những tác phẩm dù đã trải qua biết bao nhiêu thế kỷ, qua sự thách thức của dòng đời, nó vẫn giữ được nguyên sức sống của mình. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một câu chuyện như vậy.

“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những 20 truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”, áng văn được mọi người đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kỳ diệu truyền đến ngàn đời. Truyện được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nhưng dưới ngòi bút tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo ra “Chuyện người con gái Nam Xương” theo cách rất riêng, giàu giá trị và ý nghĩa. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết vô cùng thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm đã thể hiện được giá trị hiện thực cùng với cảm hứng nhân đạo sâu sắc.

Trước hết, “Chuyện người con gái Nam Xương” là bản án vô cùng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến nam quyền, bất công bấy giờ thông qua số phận bi kịch của Vũ Nương cùng với sự độc đoán của nhân vật Trương Sinh. Ngay khi bắt đầu, Vũ Nương đã phải chịu một tình duyên vô cùng ngang trái. Nàng- người con gái rất thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp nhưng lại phải lấy Trương Sinh- một kẻ thất học và rất đa nghi, với vợ thường phòng ngừa hết mực. Cuộc tình duyên đó đã chứa đựng mầm mống của những mâu thuẫn.

Lấy chồng chưa được bao lâu, Vũ Nương lại phải chịu sống trong cảnh chờ đợi vất vả. Vợ chồng phải chia phôi do “động việc lửa binh”. Cảnh nàng tiễn chồng đi lính thật sự ái ngại, xót xa: nàng rót chén rượu đầy rồi ứa hai hàng lệ. Đến khi chồng đi lính, nàng phải sống vò võ một mình mà ngóng trông tin chồng.

Nàng thay chồng lo toan gánh vác mọi công việc trong gia đình: nuôi dạy con nhỏ, chăm sóc và phụng dưỡng mẹ già khi ốm đau, ma chay tế lễ chu đáo lúc mẹ chồng mất. Ái ngại thay cho nàng, sau khi mẹ chồng mất, trong căn nhà trống vắng và cô đơn ấy, chỉ có người vợ trẻ và một đứa con thơ dại.

Hơn nữa, người phụ nữ ấy còn phải chịu nỗi oan và cái chết vô cùng thương tâm. Chỉ vì một lời nói của đứa trẻ mà Trương Sinh đã đinh ninh rằng vợ mình hư hỏng, một mực mắng nhiếc và đánh đuổi nàng đi. Hỏi nguyên cớ thì Trương Sinh lại giấu diếm, nàng hết lời minh oan nhưng chồng lại không nghe, bà con làng xóm biện minh cho nàng cũng không ích gì.

Nàng bị chồng đẩy vào một bi kịch: “người vợ mất nết hư thân”, dồn đẩy nàng phải tìm tới cái chết để minh oan. Nhưng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn sau, Trương Sinh đã nhận ra nỗi oan của vợ thì cũng là lúc “việc đã trót qua rồi”. Người đọc chỉ biết ngậm ngùi và thở dài xót thương cho thân phận người phụ nữ bạc mệnh.

Vũ Nương còn phải gánh chịu nỗi oan cách trở. Sống dưới thủy cung, cuộc sống rất đầy đủ, xứng đáng với nàng nhưng đó chẳng phải cuộc sống mà nàng mong ước. Nàng vẫn khao khát có được cuộc sống gia đình, quê hương. Việc nàng trở về nhưng không thể nào trở về trần gian được nữa, âm dương cách biệt, nàng không còn được làm một người vợ, người mẹ nữa.

Còn nhân vật Trương Sinh lại được xây dựng là con của nhà hào phú nhưng lại thất học và rất đa nghi. Chính lòng ghen tuông mù quáng cùng cách cư xử hồ đồ, Trương Sinh đã đẩy chính vợ mình vào cái chết oan nghiệt. Bi kịch của Vũ Nương là tiêu biểu cho bi kịch của người phụ nữ Việt Nam ở trong xã hội phong kiến: số phận nhỏ bé, không có tiếng nói và không được quyền được quyết định số phận của cuộc đời mình.

Trương Sinh chính là sản phẩm của xã hội phong kiến bất công nổi bật bởi thói gia trưởng độc đoán, với tư tưởng trọng nam khinh nữ đã đẩy một người phụ nữ tới với bi kịch. Qua đó chính là lời tố cáo toàn xã hội phong kiến bất công và cổ hủ với những định kiến của xã hội, với cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm tan nát bao nhiêu gia đình, cuộc đời.

Nhưng đằng sau sự xót xa và phẫn uất trước chế độ phong kiến lại là thái độ rất trân trọng, là tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ đối với con người. Tác giả thể hiện sự trân trọng và ngợi ca cho vẻ đẹp của người phụ nữ: Vũ Nương. Vũ Nương là một người con gái đẹp người lại đẹp nết. Ngay phần đầu giới thiệu, tác giả đã sử dụng những từ ngợi ca dành riêng cho nàng. Vì thế mà Trương Sinh mới xin với mẹ đem trăm lạng vàng để cưới về.

Nàng còn là một người vợ thủy chung. Trong cuộc sống gia đình, nàng luôn luôn giữ gìn khuôn phép. Dù chồng có tính đa nghi nhưng gia đình lại chưa từng đến thất hòa. Trong buổi tiễn chồng đi lính, nàng chỉ mong muốn chồng bình yên trở về. Với nàng, mọi vinh hoa phú quý không có ý nghĩa bằng hạnh phúc gia đình. Nàng còn cảm thông với những gian khổ và hiểm nguy mà chồng phải trải qua ở nơi chiến trận, đồng thời bày tỏ về nỗi nhớ nhung của mình.

Khi chồng đi lính, nàng luôn hướng đến chồng, nỗi buồn nhớ trải dài theo năm tháng. Khi bị chồng nghi oan, nàng đã hết lời để phân trần: dùng thân phận và tấm lòng. Nỗi đau đớn tuyệt vọng khi hạnh phúc của gia đình đang trên nguy cơ tan vỡ. Nàng đã tìm đủ mọi cách để có thể cứu vãn hạnh phúc gia đình, để minh oan cho bản thân. Hành động nhảy xuống sông tự vẫn nhằm tỏ rõ với đời người phụ nữ đoan trang, trinh bạch, giữ tiết, gìn lòng.

Sống dưới thủy cung, nàng vẫn luôn hướng đến gia đình, quê hương. Việc nàng trở về để được minh oan nhưng nàng lại không trở về được nữa để giữ lòng thủy chung với Linh Phi- người đã cưu mang nàng. Hơn nữa, Vũ Nương còn là một người mẹ vô cùng hiền lành, một người con dâu hiếu thảo.

Nàng đảm đang, lo toan được mọi công việc gia đình khi chồng đi vắng. Lời trăng trối của người mẹ chồng chính là sự ghi nhận cao nhất về phẩm hạnh làm dâu, làm con của nàng: bà cảm ơn công sức của nàng với gia đình nhà chồng, bà cầu mong đứa con của mình sẽ luôn được hạnh phúc: “xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

Có thể nói, Vũ Nương là một người phụ nữ lý tưởng, ở nàng xuất hiện với ba thân phận: người vợ thủy chung, người mẹ hiền và người con dâu hiếu thảo. Tất cả đều hoàn hảo, sáng tỏ tới mức tuyệt vời. Trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ, vốn không được coi trọng ở trong xã hội chính là giá trị nhân văn của tác phẩm. Đặc biệt, tác giả còn sáng tạo hơn so với cổ tích khi để Vũ Nương có thể được trở về để minh oan.

Nó như khúc vĩ thanh trong bản nhạc nhằm ngân lên những ước mơ ngàn đời của người nông dân, rằng cuộc đời này vẫn còn công lý, người tốt dù phải chịu oan rồi cũng sẽ được trả lại sự trong sạch, cái thiện rồi cũng sẽ chiến thắng. Cũng chính vì thế mà tác phẩm vơi đi phần nào sự bi thương và đau đớn để đánh thức trong người đọc niềm tin, sự lạc quan hướng về tương lai.

Ngoài những giá trị về nội dung sâu sắc, tác phẩm còn có những thành tựu nghệ thuật vô cùng đặc sắc. Tất cả mọi diễn biến tính cách và số phận nhân vật đều xoay quanh chi tiết về chiếc bóng. Nó không xuất hiện ở ngay từ đầu nhưng là yếu tố giúp câu chuyện lên tới cao trào và cũng chính nó để cởi nút cho câu chuyện.

Nhờ vào cách sắp xếp tình huống mà câu chuyện đã trở nên bất ngờ, hồi hộp và căng thẳng. Cùng với đó là nghệ thuật khắc họa nhân vật điển hình, đại diện cho nhiều đặc điểm tầng lớp và số phận của con người trong xã hội. Giọng văn cùng với những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tuy có ước lệ nhưng vẫn rất sinh động, chân thực và hài hòa.

Như vậy, “Chuyện người con gái Nam Xương” là tiếng nói giúp lên án, tố cáo xã hội phong kiến quá bất công, vô lý. Đồng thời lên tiếng nói thương cảm và ngợi ca với vẻ đẹp con người, niềm tin vào sự công bằng và công lý xã hội. Tấm lòng đau đáu của Nguyễn Dữ nhìn vào hiện thực và dành cho con người đã khởi nguồn cho tiếng nói nhân đạo của các nhà thơ, nhà văn Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, … sau này.

Từ một chiếc bóng oan nghiệt, tác phẩm đã thấm đẫm cảm hứng nhân văn, mở ra cho chúng ta biết bao bài học về tình người và cuộc sống. Đây là một áng “thiên cổ kì bút” rất đáng tìm hiểu và suy ngẫm.

Bài tham khảo 2:

“Truyền kỳ mạn lục” là một tác phẩm có giá trị trong nền văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi viết bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm ấy được trích trong Truyền kì mạn lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Truyện kể về một người phụ nữ có tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương thuộc tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính và đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ chồng và chăm sóc con thơ trong suốt khoảng thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe được lời ngây thơ của con trẻ, người chồng đã nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng rồi đuổi đi.

Không thể phân giải được oan tình, nàng đã trẫm mình xuống sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ của vua biển) đã cứu vớt nàng và cho ở lại dưới Long Cung. Người chồng biết vợ mình bị oan nên vô cùng hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương cũng hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi quay trở lại Long Cung.

Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất và có tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc nhưng phải chịu nỗi oan tày trời vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn của một người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết nhằm giải nỗi oan tình.

Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào nhiều hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái với tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị và nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để cho vợ chồng phải thất hoà dù cho Trương Sinh vốn có tính hay ghen.

Khi chồng đi lính, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy để tiễn chồng. Lời của nàng thật sự xúc động, nói về niềm yêu thương và mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ về nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà chồng mình sẽ trải qua, niềm mong ước về một ngày được đoàn tụ… làm mọi người trong tiệc đều tuôn ra hai hàng lệ.

Chồng đi đánh giặc ở ngoài biên ải, nàng vẫn một lòng son sắt và thuỷ chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong sự cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu rất hiếu kính, tận tụy chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ đã qua đời (lo liệu đàng hoàng như đối với mẹ đẻ mình).

Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng cũng ra lính trở về, cùng là lúc nàng lại bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng có thể hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó … mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói về thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định về lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ.

Dù họ hàng và làng xóm có bênh vực hay biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương phải thống thiết: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng … đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc của gia đình, niềm khao khát cả đời nàng giờ đây cũng bị tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ đợi chờ chồng giờ đây cũng hóa đá….

Tuyệt vọng vì phải gánh chịu nỗi oan tày trời không phương nào giãi bày, cứu chữa nàng đành phải mượn cái chết để chứng tỏ được tiết hạnh trong sáng của mình. Nàng đã có lời khấn nguyện với thần linh rất thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nhu Mĩ. Nhược bằng lòng chim, dạ cá, lừa chồng dối con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc phải xót xa – con người rơi vào cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để có thể tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết cho thần linh chứng giám.

Sau một năm ở dưới thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã phải ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về nơi dòng nước cho thỏa lòng nhớ chồng, thương con.

Qua những hoàn cảnh khác nhau của nhân vật Vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định về những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam – một người phụ nữ vừa đẹp người, lại nết na, hiền thục, tháo vát, đảm đang, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ được lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun vén hạnh phúc gia đình… lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế nhưng mà phải chết một cách oan uổng và đau đớn.

Cái chết của Vũ Nương có rất nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực vô cùng nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, cùng với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận của những người phụ nữ, rồi tính đa nghi và ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ biết bao nhiêu cuộc đời những người phụ nữ.

Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương với Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Sinh còn có tính đa nghi, đối với vợ thì luôn phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động vô cùng độc đoán của Trương Sinh sau này.

Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang theo một tâm trạng rất nặng nề: mẹ qua đời, con vừa mới học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như vậy, lời của Bé Đản rất dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “Trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến…”

Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi đó. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng đã bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu lắng nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Trương Sinh lại mắng nhiếc nàng rồi đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh đã vô hình dung dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.

Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương đã phản ánh một thực trạng về thân phận người phụ nữ ở trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ và khắt khe của lễ giáo, bị đối xử vô cùng bất công, bị áp bức và phải chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo về hiện thực của tác phẩm.

Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương, còn biết bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa đã phải gánh chịu: Nàng Kiều ở trong “Truyện Kiều” của tác giả Nguyễn Du, người cung nữ ở trong “cung oán ngâm khúc” của tác giả Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ bị lỡ duyên tình trong thơ của Hồ Xuân Hương…

Phải nhận thấy rõ ràng với truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong những nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng được những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn và xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy sự kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện lên với tất cả nét thảm khốc.

“Thắt nút” truyện bằng yếu tố rất bất ngờ. Một câu nói chỉ ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà đã gây bão tố dây chuyền trong cả cuộc đời. Bão tố nghi kỵ ở trong đầu của nam quyền độc đoán và thiếu trí tuệ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan đi hạnh phúc của một gia đình vốn êm ấm. Bão tố oan khiến phá nát đi cuộc đời của một người con gái trong trắng và phải kết thúc bi thảm ở một dòng sông.

“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói của trẻ thơ non dại (khi chỉ vào cái bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa”) thì bao nhiêu oan gây thảm kịch ở trong phút chốc bỗng được làm sáng tỏ.

Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật đã được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện thêm phần sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí cùng với tính cách nhân vật: lời nói của bà mẹ Trương Sinh rất nhân hậu và từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng thật chân thành, mềm mỏng, dịu dàng, có lý, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục và đoan chính; lời của Bé Đản thì hồn nhiên, ngây thơ và thật thà.

Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc tại đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ ra, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ lại có thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp được chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo thêm truyền kỳ từ cổ tích nhằm nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mỹ cao hơn.

Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn cho truyện và hoàn chỉnh được tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân đó là “ở hiền gặp lành”, người tốt cuối cùng sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì được tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại ở dưới Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ ở trên sông… đó là những tình tiết kì ảo hay không có thực nhưng đã tạo nên một thế giới nghệ thuật lung linh và huyền ảo.

Số phận và cuộc đời thực sự thì vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu vãn được cuộc đời của Vũ Nương cùng với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà lại không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà lại không thể trở về được.

Truyện “Người con gái Nam Xương” để lại giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo hết sức sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận của những người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến đã được phản ánh trong những tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ về giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam ở trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên để làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng và hạnh phúc với chồng con và họ cũng được đề cao nhân phẩm ở trong xã hội của thời đại mới.

Bài tham khảo 3:

Mỗi câu chuyện viết ra đều mang một ý nghĩa tự thân của nó, có vai trò cảm hoá cuộc đời và con người. Nếu một tác phẩm văn học không mang được những ý nghĩa sâu xa như thế, nó sẽ vẫn nằm ở trong sự băng hoại của thời gian. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã vượt qua được quy luật của thời gian lẫn không gian để đến với chúng ta vào ngày hôm nay.

“Chuyện người con gái Nam Xương” nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”, một trong những câu chuyện lạ được lưu truyền trong dân gian sau đó được ghi chép lại. Lạ nhưng câu chuyện đó không viển vông đến xa rời với thực tế, mà nó như một tấm gương soi chiếu khung cảnh xã hội bấy giờ, là một khúc ca cho tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Dữ. Bởi những giá trị đó mà đã hàng ngàn năm trôi qua, vẫn còn một tác phẩm luôn đồng hành với chúng ta cho đến ngày hôm nay.

Truyện kể về một người con gái vùng Nam Xương, tính đã dịu hiền nết na mà lại thêm tư dung tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh, một chàng trai gia thế giàu có nhưng ít học, tính tình lại cục cằn và hay ghen. Và chiến tranh nổ ra, Trương Sinh cũng bị bắt đi lính, để mẹ già vợ trẻ ở nhà ngày đêm mong ngóng. Trương Sinh đi để cho Vũ Nương ở lại với một người con trai, vì thương nhớ chồng nên nàng chỉ chiếc bóng trên tường sau đó nói với con người đó là cha.

Ba năm sau, Trương Sinh trở về, nghi ngờ vợ của mình thất tiết và đuổi đánh vợ, khiến nàng phải nhảy xuống sông mà tự vẫn. Một thời gian sau, Trương Sinh cũng phát hiện ra sự thật, muốn vợ quay trở về nhưng lúc đó mọi chuyện đã quá muộn. Cả câu chuyện như một vở kịch vô cùng đau thương về số phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, phải chịu tủi nhục và đau khổ đến nhường nào!

“Chuyện người con gái Nam Xương” còn tồn tại tới ngày hôm nay có lẽ là nhờ vào giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc của nó. Đó là bức tranh về hiện thực xã hội phong kiến chất đầy những uất ức bất công, đặc biệt là đối với người phụ nữ. Vũ Nương dù mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng không thể lựa chọn hạnh phúc cho chính cuộc đời mình.

Nàng vì trăm lạng bạc của mẹ Trương Sinh mà chọn về làm dâu làm vợ của người, không ai biết rằng nàng có hạnh phúc hay không. Rồi khi bị chồng nghi oan, nàng cũng không có quyền được nói lên nỗi lòng của mình. Dù cho bị đánh đập, bị đuổi đi mà không được nói lấy một lời giải thích. Chính chế độ nam quyền khi đó là nguyên nhân dẫn tới cuộc đời bi kịch của Vũ Nương.

Trong tác phẩm, ta còn nhận ra được một hiện thực tàn khốc hơn nữa, chính là chiến tranh thời phong kiến phi nghĩa. Cuộc chiến đó khiến cho mẹ mất con, vợ mất chồng và con mất cha. Dù cho một người giàu có như Trương Sinh, cũng không tránh được vòng vây đao kiếm. Tất cả đều để phục vụ cho nhu cầu của những thế lực phong kiến tranh đã giành quyền lực và còn đổ lên đầu của con đỏ dân đen.

Nếu như không có chiến tranh phong kiến, cũng không có khoảng thời gian ba năm xa cách đằng đẵng giữa Vũ Nương với chồng, cũng không có sự nhầm lẫn đáng tiếc ấy. Vũ Nương phải chết, cũng một phần là do chiến tranh mà ra. Có thể nói, tác phẩm đã phản ánh rất chân thực những hiện thực còn đang nhức nhối trong xã hội bấy giờ, để sau này người đời còn nhìn vào rồi hiểu rằng, đã có một thời lầm than như vậy.

Nhưng một tác phẩm văn học sẽ không thể sống được nếu nó chỉ là sự sao chép lại hiện thực theo giản đơn. Trong hiện thực, ta còn phải thấy được cả một tấm lòng của tác giả gửi gắm, hay cũng chính là tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ ở trong tác phẩm của mình. Tiếng nói nhân đạo đó trước hết thể hiện ở việc ca ngợi và trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ ở trong xã hội phong kiến.

Vũ Nương được miêu tả là một cô gái, đã có tư dung tốt đẹp lại còn dịu hiền nết na. Nguyễn Dữ nhìn ra được những phẩm chất rất cao quý ở trong tâm hồn người con gái đó. Chính vẻ ngoài xinh đẹp cùng với tính tình của nàng đã chiếm trọn được trái tim của chàng Trương Sinh, để chàng phải bảo mẹ hỏi cưới cho bằng được. Kể từ đó, Vũ Nương nổi bật lên là một người con vô cùng hiếu thảo. Chồng đi lính, nàng vẫn hết lòng phụng sự và chăm lo cho mẹ chồng.

Khi bà ốm, nàng tất tả đi lo toan thuốc thang, khi bà mất, nàng cũng lo toan ma chay cho thật chu đáo. Dẫu chỉ là mẹ chồng, nàng vẫn nhất định toàn tâm chăm sóc như bố mẹ đẻ. Đó là một tấm lòng thơm thảo, luôn dành hết sự biết ơn cho đấng sinh thành. Phẩm chất đó thật đáng quý làm sao. Khi đã làm mẹ, Vũ Nương lại hết mực yêu thương và chăm sóc cho con.

Thương con lớn lên trong hoàn cảnh thiếu cha, ngày ngày nàng chỉ vào chiếc bóng trên tường và nói với con rằng đó là cha nó. Ta có thể thấy được một khao khát gia đình trọn vẹn để con được đủ đầy và yêu thương. Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương, có chăng cũng là từ chính tình yêu thương con mà ra.

Nét nổi bật nhất ở trong vẻ đẹp của Vũ Nương có lẽ chính là tấm lòng chung thuỷ một lòng với chồng mình. Khi chồng ở nhà, nàng khôn khéo đảm đang không để cho chồng phật ý, khi chồng ra trận, nàng lại một lòng chăm sóc cho mẹ già con nhỏ. Nàng sống trong nỗi nhớ chồng và khao khát được gặp lại chồng của mình. Nàng luôn giữ gìn được hai chữ “tiết hạnh” để không cảm thấy có lỗi với chồng.

Chiếc bóng xuất hiện mỗi đêm có lẽ là minh chứng rõ ràng nhất cho sự thủy chung của Vũ Nương. Và đặc biệt, khi chết đi, nàng đã quay trở lại gặp chồng thêm lần nữa, một mặt là khẳng định được tấm lòng chung thủy, một mặt vẫn còn lưu luyến mối tình xưa nghĩa cũ. Tấm lòng chung thủy của Vũ Nương, không một ai có thể phủ nhận được. Đó chính là vẻ đẹp tiêu biểu nhất của người phụ nữ Việt Nam, dù phải chịu bất công nhưng vẫn một lòng chung thủy.

Tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ, ta còn gặp trong sự đồng cảm với khát vọng hạnh phúc của con người. Cuộc đời Vũ Nương luôn là những chuỗi ngày bị ép buộc và chờ đợi. Nàng luôn khát khao có được một mái ấm gia đình với đủ đầy tình yêu thương nhưng không thành hiện thực. Nguyễn Dữ để nàng sống thật hạnh phúc ở một thế giới khác, không còn khổ đau hờn ghen, chính là để hiện thực hóa được ước mơ hạnh phúc của con người.

“Chuyện người con gái Nam Xương”, với những giá trị hiện thực và nhân đạo của nó, đã thực sự chạm được tới phần sâu kín nhất của trái tim con người. Đó là nỗi lòng của chính Nguyễn Dữ, là cặp mắt nhìn đời vô cùng tinh anh sắc sảo cùng với tấm lòng nồng ấm yêu thương. Tác phẩm đã cho ta thấy được cái tâm và cái tài của một người nghệ sĩ lớn, đó mới là nghệ thuật chân chính mà muôn đời con người luôn muốn theo đuổi. Thời gian vẫn sẽ tuần hoàn theo đúng quy luật của nó, nhưng ta sẽ vẫn còn nhớ đến tác phẩm để hoài niệm về quá khứ xa vắng, để đau xót và để yêu thương!

Khóa học DUO dành riêng cho các em bậc THCS từ nhà trường VUIHOC, các em sẽ được học cùng các thầy cô TOP trường điểm quốc gia với kinh nghiệm giảng dạy phong phú. Đăng ký học thử để được trải nghiệm buổi học trực tuyến hoàn toàn miễn phí nhé!

2. Viết bài văn phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” 

Bài tham khảo 1:

Trong phần đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dự cảm về số phận của nàng Kiều không chỉ về nhan sắc hơn người, mà còn trực tiếp trong câu thơ: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, và quả thật câu thơ ấy đã vận vào đời nàng. Gia đình gặp phải biến cố, cha và em bị bắt đi, nàng phải bán mình để chuộc cha. Không chỉ vậy, còn bị tên Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh. Cuộc đời nàng bắt đầu bước vào một chuỗi ngày tăm tối khi bị giam giữ ở lầu Ngưng Bích. Tất cả những điều ấy được thể hiện rõ nét ở trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

Đoạn trích nằm trong phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”, bố cục của bài được chia làm ba phần: phần đầu nói về cảnh ngộ và nỗi niềm của nhân vật Thúy Kiều; phần hai là nỗi nhớ da diết Kim Trọng và cha mẹ; phần ba cho thấy được nỗi cô đơn, hãi hũng và dự cảm về tương lai đầy những tai ương, bất trắc của chính mình.

Tình cảnh của Thúy Kiều rất đáng thương, sau khi biết mình bị lừa bán vào trong lầu xanh, Kiều đã uất ức định tự vẫn, nhưng Tú Bà đã ngăn chặn và vờ hẹn đợi Kiều bình phục sẽ tìm một người tốt để gả chồng cho nàng, nhưng thực chất nàng bị giam giữ ở lầu Ngưng Bích, để mụ ta chờ thời cơ thực hiện những âm mưu mới. Thúy Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, khóa kín cả thanh xuân của mình tại nơi đây, thật đáng thương và xót xa làm sao cho số phận của nàng. Nơi ở của nàng bị tách biệt khỏi thế giới xung quanh: Bốn bề bát ngát xa trông, / Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Cả không gian mênh mông và rợn ngợp hiện ra ở trước mắt, những hình ảnh “non xa” và “trăng gần” gợi ra một không gian ở cả chiều cao và chiều xa, không gian của lầu Ngưng Bích thật chơi vơi và chênh vênh, đơn độc, tách khỏi mọi sự giao tiếp với xã hội xung quanh. Không chỉ thế, không gian đó còn không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống. Nguyễn Du đã liệt kê ra hàng loạt những chi tiết: cát vàng, cồn nọ, bụi hồng, dặm kia như sự phủ định về sự sống và gợi ra cái ngổn ngang của cảnh vật. Không gian quạnh hiu và vắng vẻ chỉ có “mây sớm”, “đèn khuya” làm bạn với Thúy Kiều.

Trong khung cảnh đó, có ai lại không cảm thấy cô đơn, trống trải, lẻ loi. Nàng không có lấy một người để bầu bạn, không có ai chia sẻ được mọi nỗi niềm, chỉ có ánh trăng vàng ngoài kia làm bạn với nàng. Nhưng nó cũng chỉ là một sự vật vô tri, nàng có trải lòng với ánh trăng thì cũng đâu thể làm nàng vơi bớt được nỗi cô đơn, sầu muộn. Lòng nàng ngổn ngang với trăm mối tơ vò, nàng khắc khoải và thiết tha tìm kiếm một dấu hiệu của sự sống, khắc khoải tìm kiếm một hơi ấm tình người, tìm sự chia sẻ từ thế giới xung quanh. Nhưng càng tìm thì nàng lại càng rơi vào sự tuyệt vọng, cô đơn vẫn hoàn cô đơn và tình cảnh của nàng quả thực rất đáng thương.

Trải lòng với thiên nhiên, tìm kiếm những hơi ấm tình người nhưng nàng chỉ toàn gặp sự tuyệt vọng, trong hoàn cảnh như thế, nàng nhớ về Kim Trọng người mà nàng yêu thương nhất và nhớ đến cha mẹ ở nhà không có người chăm lo.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/ Tin sương luống những dày trông mai chờ/ Bên trời góc bể bơ vơ/ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Chỉ một chữ “tưởng” thôi mà đã thể hiện được biết bao cảm xúc nhớ thương và khát vọng tình yêu đôi lứa. Kỉ niệm thề nguyền hôm nào dường như vẫn còn vẹn nguyên ở trong trái tim Kiều, nhưng tất cả chỉ là quá khứ, đó cũng chỉ là mơ tưởng về một quá khứ đã xa mà thôi. Điều đó khiến nàng càng trở nên xót xa, đau đớn và tự trách bản thân đã phụ bạc chàng Kim. Kim Trọng về tang chú, không hề biết rằng gia đình Kiều đã xảy ra tai biến, bởi vậy có lẽ vẫn ngày đêm mong ngóng tin tức từ người mình yêu thương. Thúy Kiều day dứt và dằn vặt trong sự đau khổ. “Tấm son” là hình ảnh thơ đa nghĩa, có thể hiểu rằng “tấm son” là tấm lòng thủy chung son sắt một lòng hướng đến Kim Trọng. Nhưng cũng có thể hiểu khi tấm lòng son đã bị vùi dập, làm cho hoen ố thì không còn cách nào gột rửa được, nàng cảm thấy không còn xứng với Kim Trọng. Dù hiểu theo cách nào ta cũng có thể thấy được tình yêu thủy chung và số phận bất hạnh của nàng.

Sau nỗi nhớ chàng Kim, Kiều cũng nhớ về cha mẹ: “Xót người tựa cửa hôm mai,/ Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?/ Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. Dù ở trong tình cảnh cô đơn và tuyệt vọng, bị đẩy đến bước đường cùng thì nàng Kiều vẫn chẳng mảy may quan tâm đến số phận mình mà vẫn một lòng hướng đến cha mẹ. Nàng lo lắng và xót xa không có ai ở nhà để chăm sóc và đỡ đần cha mẹ khi tuổi cao, sức yếu. Nàng thương cha mẹ cảnh ngày ngày phải ngóng con về trong vô vọng. Điển tích “Sân Lai” càng cho thấy được rõ hơn tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ. Nàng quả là người con có tình, có nghĩa và hiếu thảo.

Sự sắp xếp của Nguyễn Du cũng quá tài tình và khéo léo, ông để nàng Kiều nhớ đến Kim Trọng trước chứ không phải nhớ về cha mẹ trước. Liệu đây có phải là sự bất hợp lý, nàng Kiều chẳng lẽ lại trọng chuyện tình hơn trọng chữ hiếu. Nhưng thực tế lại không phải như thế. Để nàng nhớ đến Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp, Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm nhục rồi bị bán vào lầu xanh, nên nàng rất đau đớn, tủi nhục, tấm lòng son sắt của nàng cũng bị phá bỏ. Bởi vậy người đầu tiên nàng nhớ đến là chàng Kim. Đối với cha mẹ: Kiều đã đền ơn sinh thành bằng cách tự nguyện bán mình chuộc cha, làm tròn chữ hiếu và vẹn đạo làm con. Cho nên ở lầu Ngưng Bích nàng nhớ đến Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với quy luật của tình cảm nhưng nàng cũng không quên nhớ đến cha mẹ, lo lắng và xót xa khi cha mẹ già yếu mà lại không có con ở bên đỡ đần.

Tám câu thơ cuối cùng là bức tranh tâm trạng thấm đẫm nỗi lo âu và sợ hãi của Kiều về tương lai của chính mình. Điệp từ “buồn trông” mở đầu cho bốn cặp lục bát, mỗi cặp lại mở ra một chiều hướng của nỗi buồn. Nỗi buồn và cảnh vật được hòa vào làm một, quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đầu tiên là nỗi buồn về thân phận tha hương, hình ảnh con thuyền phía xa gợi về số phận bấp bênh của Kiều, đồng thời cho thấy được khát vọng được đoàn tụ của nàng. Cặp lục bát thứ hai với hình ảnh ẩn dụ là “hoa” cho thấy rõ hơn về thân phận trôi dạt giữa dòng đời. Câu hỏi tu từ “về đâu” đã nhấn mạnh thêm nữa sự mất phương hướng và vô định không biết cuộc đời mình sẽ đi đâu và về đâu. Cảnh vật ngày càng tiến gần hơn đến Kiều: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”, màu xanh không còn tràn đầy sức sống, xanh tươi mà đó là màu xanh của sự úa tàn và chết chóc. Từ láy “rầu rầu” nhấn mạnh hơn nữa vào sự úa tàn của cảnh vật và u buồn của lòng người. Câu thơ cuối cùng chính là hình ảnh thơ khiến cho Thúy Kiều xiết bao rợn ngợp và hãi hùng: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Thiên nhiên thật hung hãn, dữ dội, tiếng sóng như ầm ầm vỗ vào bờ. Thậm chí Kiều còn có cảm giác như những đợt sóng ấy bủa vây lấy mình, đổ ập xuống cuốn theo mình đi. Hình ảnh của những con sóng đó cũng chính là dự cảm của nàng về những biến cố mà nàng sắp phải gánh chịu sau này. Linh cảm ấy càng khiến cho Kiều lo lắng, sợ hãi hơn.

Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vô cùng tài ba của Nguyễn Du, tình và cảnh như hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau. Ngôn ngữ trần thuật đặc sắc đặc biệt chính là hệ thống từ láy và điệp từ trong tám câu cuối góp phần thể hiện được tâm trạng và số phận nhân vật.

 “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một tuyệt bút về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Cho thấy số phận bất hạnh và sóng gió của nàng Kiều. Đồng thời cho thấy được tấm lòng hiếu thảo, tình nghĩa, thủy chung với cha mẹ cũng như người yêu. Qua đây còn cho thấy được sự cảm thương của tác giả với số phận bất hạnh của Thúy Kiều.

Bài tham khảo 2:

Không chỉ là một bậc thầy trong việc tả người, Nguyễn Du còn có biệt tài trong việc tả cảnh. Khung cảnh ông miêu tả đã đạt tới sự mẫu mực, cổ điển, nói lên được tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Tình và cảnh trở thành hai yếu tố bổ sung làm ra chất riêng cho sáng tác của Nguyễn Du. Và tình cảnh đó đã được ông kết hợp vô cùng hài hòa nhằm phản ánh lên tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Mỗi một bức tranh của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích gắn liền với một tâm trạng của Thúy Kiều. Bức tranh đầu tiên là khung cảnh thiên nhiên hoang vắng và mênh mông, rợn ngợp:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

    …

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Sau khi bị lừa và giam nhốt vào lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều tự hiểu được hoàn cảnh của bản thân. Là một cô gái trẻ, ấy thế mà nàng lại bị “khóa xuân” ở trong cung cấm, không được giao tiếp với bên ngoài, nàng như bị giam lỏng. Khung cảnh thiên nhiên bao la và hoang vắng: trăng sáng, núi xa, cồn vàng, những bụi cỏ trải dài hết cả tầm mắt. Kiều vừa bị lừa, vừa bị đánh đập và la mắng, định tự tử nhưng không thành, nay lại bị giam ở lầu Ngưng Bích.

Trong khung cảnh đó, tâm trạng của con người làm sao cho hết buồn, hết cô đơn và tủi cực, lòng nàng ngổn ngang trăm bộn bề, tìm ra xa, rồi đi lại gần để mong có được hơi ấm trong cuộc sống, nhưng cuối cùng lại chỉ có thể làm bạn với canh khuya. Nàng đau đớn thắt lòng, chẳng thể nào làm tìm được nguồn vui ở hiện tại nên nàng đành lòng nhớ về quá khứ và nhớ về người thân. Nàng nhớ đến Kim Trọng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

    …

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Nhưng nhớ về Kim Trọng càng khiến nàng đau đớn hơn. Những kỉ niệm trong sáng và đẹp đẽ của mối tình đầu bỗng ùa về, làm thắt lại trái tim vốn nhỏ bé của nàng. Nàng tự trách mình đi không có một lời báo trước để chàng Kim vẫn ngày đêm ngóng trông. Bao giờ nàng mới có thể quên đi được mối tình trong sáng và đẹp đẽ đó. Sau khi nhớ đến Kim Trọng, Thúy Kiều nhớ đến cha mẹ già, tuổi cao sức yếu mà không có người chăm lo: “Xót người tựa cửa hôm mai/ Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ/ Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” kết hợp với điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đã cực tả về nỗi nhớ thương cũng như lòng hiếu thảo của Kiều. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói về sức mạnh của bao mùa mưa nắng, vừa nói về sự tàn phá của thiên nhiên đối với cảnh vật và con người. Nguyễn Du đã thành công khi sử dụng được ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm thía vào cảnh vật, thời gian lẫn lòng người. Nàng dường như quên đi cảnh ngộ của chính mình để lo nghĩ cho những người thân yêu.

Bức tranh thiên nhiên thứ hai cũng là tám câu thơ cuối, khi nàng trở về với hiện thực phũ phàng trước mắt mình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

    …

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Khung cảnh về chiều, với cánh buồm bé nhỏ ẩn hiện ở giữa khung cảnh mênh mông sóng nước. Con thuyền càng trở nên lẻ loi và đơn độc hơn. Nó cũng giống như cuộc đời của Kiều, đơn độc ở trên bước đường đời đầy truân chuyên, chẳng biết khi nào mới được đoàn tụ với gia đình.

Rồi đôi mắt nàng hướng đến những ngọn nước mới sa, những nhành hoa mỏng manh bị trôi dạt, rồi tự hỏi không biết chúng sẽ trôi đến đâu. Nhìn những cánh hoa tàn lụi, nàng lại càng thấy buồn hơn vì thấy hình ảnh của chúng mình ở trong đó, lênh đênh và vô định giữa sóng gió cuộc đời. Đây cũng chính là hoàn cảnh rất tội nghiệp, đáng thương của nàng. Số phận của mình cũng không được làm chủ, bị đưa đẩy và vùi dập. Tâm trạng cô đơn và bơ vơ càng được tô đậm hơn nữa.

Nhìn ra một hướng khác cũng chỉ có nội cỏ bủa vây ở bốn phía. Màu xanh tàn tạ và héo úa, nhạt nhòa, đâu còn là màu xanh non tươi tốt, mỡ màng đến tới chân trời của cảnh ngày xuân nữa. Màu xanh ấy gợi lên trong Kiều nỗi buồn vô vọng vì cuộc sống quẩn quanh và bế tắc. Hai câu thơ cuối cùng cả tình và cảnh đã đạt tới độ điêu luyện. Nỗi buồn mỗi lúc một tăng và dồn dập xô tới. Tiếng sóng ầm ầm ấy cũng chính là biết bao nhiêu phong ba bão táp đổ ập xuống cuộc đời của Kiều. Lúc này không còn là lo âu mà đó là sự kinh sợ, dần rơi vào vực thẳm của sự bất lực.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc, kết hợp với vốn ngôn từ phong phú, Nguyễn Du đã xây dựng rất thành công bức tranh chân dung về tâm trạng Thúy Kiều. Tấm lòng nàng ngổn ngang và đầy giông bão, nàng bất lực phải chờ đợi những khó khăn ở phía trước. Những vần thơ cũng cho thấy được tấm lòng cảm thông mà Nguyễn Du dành cho những người phụ nữ với số phận bất hạnh.

Bài tham khảo 3:

Đoạn thơ "Kiều ở lầu Ngưng Bích" có 22 câu, trích trong "Truyện Kiều" được xem là những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình" (Tố Hữu) . Bao biến cố khủng khiếp đã xảy ra: tai bay vạ gió, cha và em đều bị tù tội, gia sản bị bọn sai "đầu trâu mặt ngựa" cướp "sạch sành sanh" ... , phải bán mình đi để chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay của Mã Giám Sinh – Tú Bà. Sau khi "thất thân" bởi Mã Giám Sinh, bị mụ Tú Bà làm nhục thì Kiều tự vẫn nhưng rồi được cứu sống. Tú Bà đã dỗ dành Kiều:

" Người còn thì của hãy còn,

Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà ..."

Kiều được Tú Bà đưa đến lầu Ngưng Bích với lời hứa "con hãy thong dong" , nhưng sự thật là nàng bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều ở trên con đường lưu lạc đầy máu cùng với nước mắt, cay đắng và tủi nhục trong suốt 15 năm trời.

Đoạn thơ không chỉ biểu lộ được tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện được một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự và về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thoại để có thể biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

Sáu câu đầu là một không gian nghệ thuật và cũng là tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có "non xa" và "tấm trăng gần"; có cả "cát vàng cồn cọ" và " bụi hồng dặm kia". Giữa một thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không có lấy một bóng người, Kiều chỉ còn biết " Bốn bề bát ngát xa trông". Một cảm giác rất cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng cho chính thân phận của mình, duyên số của mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với " mây sớm đèn khuya", nỗi lòng người con gái bị lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán biết bao:

" Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"

Bốn chữ "như chia tấm lòng" diễn tả về một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát và đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và có trăng gần- nhưng nàng vẫn luôn cảm thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi vì "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Kiều sao không khỏi sự cô đơn và bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy sự bi kịch:

" Chung quanh những nước non người,

Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu"

Tám câu thơ tiếp theo nói về niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương cha mẹ của Thúy Kiều khi phải sống một mình ở trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều " tưởng người ... ". Còn với cha mẹ thì nàng đã "xót người ... ", mỗi đối tượng Kiều lại có một nỗi thương nhớ khác.

Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Trì, Kiều thương Kim Trọng phải chịu cô đơn và đau khổ "Một trời thu để riêng ai một người". Đối với cha mẹ Kiều khắc khoải "Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn." Lần này, Kiều tưởng nhớ đến chàng Kim, nhớ về lời thề dưới trăng đêm tình tự "dưới nguyệt chén đồng", thương người yêu phải đau khổ "rày trông mai chờ" và "bơ vơ" cô đơn, sầu tủi. Đến bao giờ mới nguôi ngoai, mới "phai" được nỗi thương nhớ đó? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như là: "dưới nguyệt chén đồng", "rày trông mai chờ", "tin sương", "bên trời góc bể", "tấm son gột rửa" ... đã diễn tả và bộc lộ một cách vô cùng sâu sắc, cảm động tình cảm thương nhớ mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà phải chia lìa đau đớn:

" Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai..."

Các động từ - vị ngữ: "tướng", "chờ", "trông", "bơ vơ", "gột rửa", "phai" ... đã liên kết với nhau thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt được nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ thương người yêu khôn nguôi, xót xa cho chính mối tình đã nặng lời thề son sắt nhưng bị tan vỡ!

Nhớ chàng Kim rồi Kiều lại xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách: "hôm mai", "cách mấy nắng mưa", những thi liệu, điển cố văn học Trung Hoa như: "sân Lai", "gốc tử" và thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", đặc biệt là hình ảnh mẹ già "tựa cửa hôm mai" đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc ở quê người đã cực tả nỗi nhớ thương của cha mẹ, nỗi đau buồn của người con gái đầu lòng không thể hay thực tế là không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu và khi "gốc tử đã vừa người ôm".

Nguyễn Du đã sử dụng đến ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển với phong cách dân tộc, tạo ra những vần thơ biểu cảm thể hiện được một tâm trạng bi kịch và một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa "trâm gãy gương tan" nàng vẫn muốn dành cho "người tình chung" bao tình thương nhớ "muôn vàn ái ân". Là một đứa con có hiếu, giàu đức hi sinh, khi cha mẹ già yếu không còn được sớm hôm phụng dưỡng, Kiều càng nhớ thương lại càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm thía vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay:

" Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm"

Tám câu cuối, đoạn điệp ngữ "buồn trông" được xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu sáu của mỗi cặp lục bát. Hai chữ "buồn trông" chính là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng "tê tái" đau thương; thương mình và cũng thương người thân, thương cho thân phận và duyên số ... . "Buồn trông" vì càng buồn thì lại càng trông, càng trông rồi lại càng buồn. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất ở trong " Truyện Kiều". Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng "buồn trông". Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên lẫn diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả thông qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng rất bi thương:

" Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"

Cửa bể mênh mông vào ngày tàn chiều hôm càng làm tăng thêm nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc. "Thuyền ai" lúc ẩn lúc hiện "thấp thoáng cánh buồm xa xa" đầy sự ám ảnh. "Buồn trông" con thuyền ai xa lạ, cánh buồm cứ xa xa "thấp thoáng" , Kiều càng nghĩ tới thân phận bơ vơ của mình ở nơi quê người đất khách.

Rồi nàng lại "buồn trông" về "ngọn nước mới sa", dõi theo những cánh hoa đang trôi dạt và tự hỏi "về đâu" tới phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác đó tượng trưng cho số phận chìm nổi ở trên dòng đời không biết về đâu - Kiều nhìn hoa trôi ở trên ngọn nước mà cảm thương cho chính số phận của mình:

" Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?"

Sau hai câu hỏi tu từ về "thuyền ai" và về hoa trôi "biết là về đâu?", Kiều "buồn trông" về bốn phía "chân mây mặt đất" về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy ở trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la chính là màu sắc tàn úa và vàng héo "dầu dầu" của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương đó đã phản chiếu nỗi đau tê tái của một người con gái bị lưu lạc:

" Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh"

"Nội cỏ dầu dầu" tàn úa hiện ra giữa màu "xanh xanh" nhạt nhòa của "chân mây mặt đất" chính là tâm trạng vô cùng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt. Sắc cỏ "dầu dầu" ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào ở trên mộ Đạm Tiên.

" Sè sè nấm đất bên đường,

Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh"

Nhìn xa rồi lại nhìn gần, vừa "buồn trông" lại vừa lắng tai nghe. Nghe tiếng gió, gió gào và "gió cuốn" trên mặt duềnh. Nghe tiếng "ầm ầm" của sóng, không phải là sóng reo mà là "sóng kêu". Gió và sóng đang bủa vây "xung quanh ghế ngồi". Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút vô cùng hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa vô cùng khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận của người con gái nhỏ bé đáng thương? Kiều buồn trông mà thật lo âu sợ hãi:

" Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Bức tranh "nước non người", cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm xa xa ở trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ dầu dầu giữa một màu xanh xanh của chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu ở nơi mặt duềnh ... mang ý nghĩa tượng trưng và rất giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc đó, âm thanh đó của thiên nhiên vừa bao la lại vừa mờ mịt, vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây lấy người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng và lẻ loi.

Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu lẫn nước mắt có "ma đưa lối, quỷ đem đường" ... đối với Kiều vẫn đang ở phía trước. Đoạn thơ: "Kiều ở lầu Ngưng Bích " như chất chứa đầy lệ. Lệ của người con gái bị lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương và chua xót vì mối tình đầu đã tan vỡ, xót xa vì thương nhớ đến mẹ cha, lo sợ cho thân phận và số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm và xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo nhưng bạc mệnh.

Các từ láy: bát ngát, bơ vơ, bẽ bàng, thấp thoáng, man mác, xa xa, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm ... kết hợp với điệp ngữ "buồn trông" đã tạo ra sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm thêm cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Đó chính là giá trị văn chương đích thực của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".


 

HỌC ONLINE CÙNG GIÁO VIÊN TOP 5 TRƯỜNG ĐIỂM QUỐC GIA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học cá nhân hóa, giúp con tăng 3 - 6 điểm chỉ sau 1 khóa học

⭐ Học chắc - ôn kỹ, tăng khả năng đỗ vào các trường chuyên cấp 2, cấp 3 

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo mong muốn và thời gian biểu cá nhân 

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô, hỗ trợ con 24/7  

⭐ Học lý thuyết đi đôi với thực hành, kết hợp chơi và học giúp con học hiệu quả 

⭐ Công nghệ AI cảnh báo học tập tân tiến, giúp con tập trung học tập

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập được biên soạn bởi các thầy cô TOP 5 trường điểm quốc gia

Trải nghiệm khóa học DUO hoàn toàn miễn phí ngay!!
 

 

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện) trên đây VUIHOC đã hướng dẫn cho các em vô cùng chi tiết. Những bài viết tham khảo này sẽ giúp các em biết được cách phân tích các tác phẩm truyện văn học hay và đặc biệt nhất.

Ngoài bài soạn này ra, nếu muốn tham khảo thêm về những bài soạn văn khác hay những bài soạn khác có trong môn học khác thì em hãy nhanh tay truy cập ngay vào website chính thức của VUIHOC đó là vuihoc.vn để có thể đăng ký cho mình khoá học một cách nhanh chóng và được giải đáp trực tiếp từ thầy cô giáo có chuyên môn cao và đầy nhiệt huyết của VUIHOC nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner after post bài viết tag lớp 9
| đánh giá
Hotline: 0987810990