img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ

Tác giả Hoàng Uyên 16:00 18/12/2023 58,577 Tag Lớp 10

Tác phẩm thơ luôn là một đề tài được lựa chọn để đưa vào các đề thi học kỳ, thi học sinh giỏi và thi THPT Quốc gia. Bởi vậy, các em cần chuẩn bị và ôn luyện các kỹ năng và lưu ý khi làm bài thật kỹ càng. Dưới đây là phần Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ mà VUIHOC muốn các em tham khảo.

Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ: Bài viết tham khảo

1.1 Câu 1 trang 64 SGK Văn 10/1 Kết nối tri thức

Bài viết tham khảo về cảm nhận và phân tích bài thơ Mùa xuân xanh (tác giả Nguyễn Bính) vừa theo tuyến hình ảnh trải dài suốt bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ và khổ thơ. Cách cảm nhận và phân tích ấy có những ưu thế gì nổi bật? 

Phương pháp giải:

- Đọc thật kỹ bài viết tham khảo.

- Tìm hiểu nét đặc sắc ở trong cách cảm nhận bài thơ Mùa xuân xanh để nêu lên những ưu điểm nổi bật nhất của cách cảm nhận này.

Lời giải chi tiết:

Ưu điểm trong cách cảm nhận và phân tích thơ vừa theo tuyến hình ảnh trải dài suốt bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ và khổ thơ:

- Cách cảm nhận và phân tích này giúp chỉ ra được những hình ảnh nổi bật có trong bài thơ từ đó có thể đánh giá và nhận xét được suy nghĩ cũng như quan niệm của tác giả một cách chuẩn xác nhất.

- Cách cảm nhận và phân tích này thể hiện một cách rõ ràng mạch cảm xúc của bài thơ, phân tích bài thơ dựa trên từng câu, từng khổ thơ thật rõ ràng và mạch lạc để cho người đọc có thể dễ dàng hiểu được nội dung của bài thơ từ đầu tới cuối.

- Với bài thơ Mùa xuân xanh, cách cảm nhận ấy không chỉ giúp làm nổi bật được nội dung bài thơ và phân tích được tác dụng của những biện pháp nghệ thuật trong từng câu thơ, khổ thơ; mà còn nhấn mạnh vào những chi tiết và hình ảnh quan trọng trong bài thơ.

=> Cách cảm nhận và phân tích vừa dựa theo tuyến hình ảnh trải dài bài thơ vừa theo trình tự câu thơ và khổ thơ giúp cho người đọc cảm nhận được bài thơ một cách dễ dàng hơn, rõ ràng hơn và không bị bỏ quên bất cứ chi tiết nào của bài thơ.

Xem thêm: Soạn văn 10 đầy đủ và chi tiết theo chương trình sách mới

1.2 Câu 2 trang 64 SGK Văn 10/1 Kết nối tri thức

Trong bài nghị luận phân tích và đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề ấy là gì?

Phương pháp giải:

- Đọc thật kỹ bài viết tham khảo.

- Từ việc tìm hiểu cách phân tích và đánh giá một tác phẩm thơ để chỉ ra được cái thực chất của việc phân tích chủ đề.

Lời giải chi tiết:

Trong bài nghị luận phân tích và đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề ấy là việc phân tích kèm theo việc nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm thơ ấy. Phân tích chủ đề nhằm làm nổi bật lên nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ đồng thời nêu lên nhận xét và đánh giá quan niệm của tác giả thông qua bài thơ đó.

1.3 Câu 3 trang 64 SGK Văn 10/1 Kết nối tri thức 

Người viết đã đánh giá về bài thơ như thế nào? Nêu nhận xét tổng quát về tính thuyết phục của đánh giá ấy.

Phương pháp giải:

- Đọc thật kỹ bài viết tham khảo.

- Dựa vào những câu văn thể hiện về thái độ và đánh giá của người viết với bài thơ để có thể nêu nhận xét tổng quát về tính thuyết phục của sự đánh giá này.

Lời giải chi tiết:

- Người viết đã đánh giá về bài thơ là bài thơ giản dị nhưng vẫn làm toát lên được sức sống phơi phới của vạn vật vào lúc xuân về. Nó là bài thơ thể hiện niềm vui sống, bài thơ của sự chan hòa của con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của mối tình lứa đôi.

- Về tính thuyết phục của đánh giá phía trên:

+ Người viết đã phân tích từng câu thơ cũng như từng hình ảnh trong bài thơ để có thể làm nổi bật được giá trị nội dung của bài thơ.

+ Người viết cũng nêu ra và phân tích được những biện pháp nghệ thuật tu từ ở trong bài thơ và nhận xét được về phong cách nghệ thuật của tác giả.

+ Ngoài ra, người viết cũng đã sử dụng một số câu thơ và bài thơ cùng chủ đề để có thể so sánh và đánh giá.

=> Đánh giá của người viết với bài thơ đã đủ sức thuyết phục cho người đọc, có những luận điểm cũng như lí lẽ và bằng chứng xác đáng, làm nổi bật lên được giá trị nội dung và nghệ thuật trong bài thơ.

Lộ trình khóa học PAS THPT sẽ được thiết kế riêng cho từng bạn học sinh, phù hợp với khả năng của các em cũng như giúp các em từng bước đạt điểm cao trong mọi kỳ thi chung và riêng.

https://vuihoc.to/SEO_PasTHPTBIN_KT

2.  Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ: Thực hành viết 

Đề bài: Viết bài văn phân tích và đánh giá bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) của Đỗ Phủ.

Phương pháp giải:

- Đọc lại tác phẩm Thu hứng (Cảm xúc mùa thu).

- Đọc lại kiến thức liên quan đến nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

- Dựa vào những kiến thức đã được học để viết bài văn phân tích, cảm nhận bài thơ.

2.1 Lập dàn ý 

2.1.1 Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Đỗ Phủ: là nhà thơ hiện thực vô cùng vĩ đại của Trung Quốc với những vần thơ giúp phản ánh hiện thực cũng như bày tỏ được cảm xúc, thái độ và tâm trạng rất đau khổ trước hiện thực đời sống của người dân trong chiến tranh, trong nạn đói chứa đầy tình yêu nước cùng với tinh thần nhân đạo.

- Giới thiệu tổng quát về tác phẩm Thu hứng (Cảm xúc mùa thu): Cảm xúc mùa thu là một bài thơ đầu tiên ở trong chòm 8 bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ thể hiện về nỗi lòng của nhà thơ với quê hương và đất nước.

2.1.2 Thân bài

a) Bốn câu đầu là Cảnh thu

* Hai câu đề:

- Hình ảnh thơ vô cùng cổ điển, là những hình ảnh được sử dụng để miêu tả mùa thu tại Trung Quốc: “ngọc lộ” hay “phong thụ lâm”

- "Vu sơn Vu giáp” là tên những địa danh nổi tiếng ở Quỳ Châu, Trung Quốc vào mùa thu khi khí trời âm u, mù mịt.

- “Khí tiêu sâm” là hơi thu hiu hắt và ảm đạm.

* Hai câu thực:

- Hình ảnh đối lập và phóng đại: sóng – vọt lên tận trời (thể hiện sự thấp – cao), mây – sa sầm xuống mặt đất (thể hiện sự cao – thấp), qua đó không gian đã được mở rộng ra thành nhiều chiều:

+ Tầng xa là vị trí ở giữa dòng sông thăm thẳm hay là “sóng vọt lên tận lưng trời”

+ Tầng cao là một miền quan ải với hình ảnh mây sa sầm giáp với mặt đất.

+ Tầng rộng là mặt đất, bầu trời và dòng sông đều làm ta hình dung được về không gian rộng lớn.

⇒ Bốn câu thơ vẽ ra một bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều nhưng hoành tráng và dữ dội. Tâm trạng buồn lo cũng như sự bất an của nhà thơ trước hiện thực tiêu điều và âm u.

b) Bốn câu sau: Tình thu

* Hai câu luận:

- Hình ảnh ẩn dụ và tượng trưng:

+ Hoa cúc là hình ảnh ước lệ về mùa thu

+ Khóm cúc đã hai lần nở hoa: Có hai cách hiểu về khóm cúc nở ra làm rơi giọt nước mắt và khóm cúc nở ra những giọt nước mắt.

 + “Cô phàm” là một phương tiện giúp đưa tác giả trở về “cố viên”, đồng thời gợi về thân phận lẻ loi, cô đơn và trôi nổi của tác giả.

- Cách sử dụng những từ ngữ độc đáo, hàm súc và cô đọng:

+ “Lưỡng khai”: Nỗi buồn lưu cữu được trải dài từ quá khứ tới hiện tại

+ “Nhất hệ”: Dây buộc thuyền cũng là một sợi dây buộc mối tình nhà của tác giả.

+ “Cố viên tâm”: Tấm lòng luôn hướng về quê cũ. Thân phận của một kẻ tha hương, ly hương luôn khiến cho lòng nhà thơ thắt lại vì nỗi nhớ quê

=> Hai câu thơ diễn tả về nỗi lòng da diết, dồn nén nỗi nhớ nhà của tác giả.

* Hai câu kết

- Hình ảnh:

+ Mọi người nhộn nhịp để may áo rét

+ Giặt áo rét để chuẩn bị cho mùa đông

- Âm thanh: tiếng chày đập vải

Âm thanh báo hiệu một mùa đông đang đến, đồng thời đó lại là âm thanh của tiếng lòng, diễn tả về sự thổn thức, mong ngóng và chờ đợi ngày được trở về quê hương.

⇒ Bốn câu thơ đã diễn tả nỗi buồn của một người xa quê, ngậm ngùi và mong ngóng ngày được trở về quê hương.

2.1.3 . Kết bài: Khái quát về giá trị nội dung cùng với giá trị nghệ thuật của bài thơ.

2.2 Viết bài 

Mẫu số 1:

Đỗ Phủ là một nhà thơ hiện thực vĩ đại của đất nước Trung Quốc với những vần thơ giúp phản ánh hiện thực đồng thời bày tỏ cảm xúc, thái độ và tâm trạng đau khổ trước hiện thực đời sống của nhân dân trong giai đoạn chiến tranh, trong nạn đói chất chứa tình yêu nước cũng với tinh thần nhân đạo. Trong những bài thơ đặc sắc của ông có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ thứ nhất ở trong chùm thơ tám bài được tác giả Đỗ Phủ sáng tác vào năm 766, khi đang sống phiêu dạt tại Quý Châu. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa miêu tả bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, lại vừa vẽ ra một bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ khi gặp cảnh loạn ly; lo cho tình hình của đất nước đang lâm vào phải cảnh rối ren và loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi nhưng phải ngậm ngùi xót xa trước thân phận bất hạnh của mình ở nơi đất khách.

 Phiên âm chữ Hán như sau:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Trong bài thơ, bốn câu đầu tiên là "câu đề" có mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la rộng lớn nhưng mang đậm nỗi buồn hiu hắt ở vùng rừng núi nơi thượng nguồn Trường Giang:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,

Người đọc có thể nhận thấy rằng Đỗ Phủ đứng tại vị trí tương đối cao để có thể ngắm nhìn toàn cảnh vật, vì thế mà tầm nhìn của ông cũng khá xa và khá rộng. Mọi thứ được miêu tả không chỉ theo chiều sâu mà còn theo tầm mắt của tác giả, nhìn về nơi xa xăm. Khả năng quan sát vô cùng tinh tế của tác giả Đỗ Phủ đã được thể hiện ngay từ câu thơ đầu tiên khi tả cảnh rừng phong cùng với làn sương còn phủ trên mặt lá cây; nó tạo ra một cảnh tượng rất buồn, đặc biệt hình ảnh rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm về sự ly biệt khi lá phong chuyển dần sang màu đỏ, khi mùa thu đang tới. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong được gắn liền với mùa thu vì mỗi độ thu về, cả rừng phong đều chuyển sang màu đỏ úa, đó là tượng trưng cho sự ly biệt. Sương móc cũng là một biểu tượng của mùa thu và cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả một rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật đã hiện lên rất rõ ràng thông qua chính cái nhìn chất chứa tâm trạng đau buồn của nhà thơ.

Câu thơ thứ hai có nhắc tới hình ảnh Vu sơn và Vu giáp, người đọc sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh đặc biệt của đất Ba Thục xưa kia – nơi toàn cảnh đều bị bao trùm bởi hơi thu hiu hắt. Trong bài thơ, Vu sơn và Vu giáp tức là núi Vu và hẻm Vu nổi tiếng vì sự hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc tới rất nhiều lần trong các câu truyện thần thoại, cổ tích cũng như thơ ca Trung Quốc. Quanh năm, mây mù đã bao phủ những ngọn núi cao chót vót; vách núi thì dựng đứng vậy cho nên ánh mặt trời cũng khó có thể lọt được xuống dưới đến lòng sông. Chính vì thế mà vào mùa thu, khung cảnh nơi đây cũng luôn ảm đạm, lạnh lẽo và thông qua ngòi bút miêu tả tâm trạng chất chứa nỗi u sầu của tác giả Đỗ Phủ nó lại càng hiện lên thêm phần tối tăm và ảm đạm.

Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất để tả cảnh mùa thu ở rừng phong, câu thứ hai để tả cảnh mùa thu ở núi non. Tuy cảnh vật có sự khác nhau nhưng nhà thơ đã nhìn chúng dưới con mắt và tâm trạng rất giống nhau – tâm trạng trĩu nặng của một nỗi buồn thương nhớ. Hai câu thơ tuy đều là hình ảnh của rừng núi nhưng lại có chung một đặc điểm, đó chính là nỗi buồn đang dần dần ngấm sâu vào tác giả, nỗi buồn đó chế ngự cả tâm trạng lẫn cảm xúc của tác giả khi ông đặt bút xuống ngâm thơ.

Cũng với tâm trạng như thế, Đỗ Phủ đã viết ra những câu thơ tiếp theo chứa nét tả thực đầy sự ám ảnh, như có ma lực có thể cuốn hút hồn người:

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Nếu như ở hai câu đầu tiên là hình ảnh của rừng phong, cũng là sự quan sát từ trên cao xuống phía dưới thì hai câu tiếp theo lại là sự miêu tả cảnh sắc vừa hoành tráng lại vô cùng dữ dội. Hai câu đề là cảnh thu ở trên cao (rừng phong và dãy núi) thì đến hai câu thực này là cảnh mùa thu từ dưới thấp. Hai cặp câu như đang bổ sung cho nhau giúp lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh ở vùng Vu sơn, Vu giáp vừa có nét âm u lại vừa hùng vĩ. Chúng vẫn là những chi tiết đã được cảm nhận thông qua đôi mắt thi nhân và đã được miêu tả dưới ngòi bút kỳ tài mà trở thành những vần thơ trác tuyệt. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực về cảnh mây trắng đang sà xuống thấp tới mức tưởng chừng như đang được đùn từ dưới mặt đất lên trên, che lấp cả cửa ải ở phía xa xa. Bốn câu thơ tuy để tả cùng một cảnh nhưng ở mỗi câu lại là một nét chấm phá riêng biệt, là sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không chỉ tập trung vào một điểm cụ thể nào đó. Cảnh sắc trời mây non nước và rừng núi được hiện ra vừa cụ thể lại vừa thể hiện đặc trưng của mùa thu. Nhưng chính hình ảnh ấy, lại khiến cho tác giả nhớ quê hương đến nao lòng.

Ở bốn câu thơ sau, tác giả Đỗ Phủ đã bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu ở nơi đất khách quê người. Câu năm và câu sáu có sử dụng nghệ thuật đối rất chuẩn, vừa là cảnh thu mà cũng chính là tình thu:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Giống như hình ảnh của rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh của hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ cũng nhắc đến hoa cúc, tưởng như không có gì quá mới lạ nhưng điều quan trọng chính là mỗi lần thấy cúc nở hoa thì nhà thơ lại bất giác rơi lệ. Hai lần nhìn thấy cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm rồi Đỗ Phủ đã sống ở Quý Châu. Hoa cúc đã xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ về những mùa thu ở chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm sự xao xuyến và xúc động tới nghẹn ngào. Hình ảnh của chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một hình ảnh ẩn dụ chất chứa đầy ý nghĩa, không chỉ do tính chất trôi nổi và đơn độc của nó mà còn do nó là phương tiện duy nhất để có thể chở ước vọng của tác giả về với quê hương ở trong tâm tưởng.

Đến hai câu cuối cùng bỗng đột ngột nổi lên một thứ âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải bên bến sông và ở trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất ấy đã đem tới cho bức tranh sinh hoạt tại nơi biên ải xa xôi một thoáng vui vẻ nhưng thoáng vui đó vẫn không đủ để có thể xua tan đi những áng mây buồn đang vây kín trong tâm hồn của người thi sĩ. Âm thanh của mùa thu mây áo vừa để kết thúc bài thơ, vừa giúp mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, mong ngóng và chờ đợi một ngày nào đó sẽ được trở về quê của tác giả.

Bốn câu cuối tập trung vào việc miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chất chứa nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng về quê nhà, nỗi khát khao được trở lại quê hương, tình yêu cùng với sự buồn bã khi phải sống tha phương. Bốn câu thơ đã diễn tả nỗi buồn của người xa quê, sự ngậm ngùi và mong ngóng ngày được trở về quê hương.

Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ chính là có kết cấu vô cùng chặt chẽ, câu nào cũng bám chặt vào chủ đề, tức là các câu đều thể hiện được cả hai yếu tố là “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh lại vừa chất chứa nỗi niềm tâm trạng. Cảnh có tất cả sương thu, rừng thu, hoa thu, sắc thu, gió thu, khí thu, sông thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thành công trong việc thâu tóm được tất cả những thần thái của mùa thu trong bài thơ.

Cảm xúc mùa thu là một bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của tác giả Đỗ Phủ. Qua bài thơ này, ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa có sự nhạy cảm lại vừa rung động mạnh mẽ với cảnh sắc. Trái tim của Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương mình, cũng thông qua bài thơ, cái tư tưởng "yêu nước thương đời" lại càng được thể hiện rõ ràng hơn. Với Đỗ Phủ, mùa thu cũng đồng nghĩa với nỗi buồn cùng với niềm thương nhớ không nguôi, nhất là lúc ông đang phải sống trong cái cảnh nghèo khổ, bệnh tật và cô đơn ở nơi xứ lạ. Những vần thơ của ông có sức lay động vô cùng mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ ấy như bật ra khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ ràng… Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là một bậc “Thi thánh” của thời Thịnh Đường mà tên tuổi sẽ được lưu danh muôn thuở.

Mẫu số 2:

Đỗ Phủ được mệnh danh là một Thi Thánh, một trong những nhà thơ phải nói rằng xuất sắc nhất trong lịch sử của văn học Trung Quốc. Ông để lại cả một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, có giá trị cao, rơi vào khoảng 1500 bài thơ. Cảm xúc mùa thu được trích trong chùm thơ “Thu hứng” bao gồm tám bài. Trong đó, cảm xúc mùa thu được đánh giá là bài thơ hay nhất và có nội dung bao quát lên cả bảy bài thơ còn lại. Tác phẩm thể hiện được nỗi nhớ quê hương tha thiết và khắc khoải của tác giả.

Tác phẩm được sáng tác vào năm 766 trong thời điểm Trung Quốc chấm dứt được loạn An Lộc Sơn. Loạn An Lộc Sơn đã gây ra biết bao hậu quả khủng khiếp. Triều đại nhà Đường bị rơi vào suy thoái. Cả nội chiến và ngoại xâm đều có nguy cơ sẽ bùng nổ. Tình cảnh của nhân dân thì vô cùng khốn khổ và bản thân Đỗ Phủ cũng phải trải nghiệm nỗi khốn khổ và điêu linh ấy. Khi đó Đỗ Phủ tới vùng đất Tứ Xuyên, được sự giúp đỡ của một người bạn thân đang làm quan nhưng sau khi bạn thân mất đi, ông cũng mất chỗ dựa. Đưa gia đình về nhưng lại đói khổ nên bị mắc kẹt lại ở Quỳ Châu hai năm với tình cảnh nghèo túng, bệnh tật và bế tắc. Trong những năm đó ông đã sáng tác rất nhiều với giọng thơ bi thiết và buồn thảm.

Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.

Câu thơ đầu tiên đã cho độc giả thấy được ba hình ảnh đặc trưng nhất của mùa thu đó là: rừng phong, hạt móc và nghìn thu, ba hình ảnh ấy có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ với nhau gợi cảm giác rất lạnh lẽo và thê lương. Sương móc vốn là loại sương chỉ đặc trưng cho mùa thu ở Trung Quốc, loại sương ấy gợi nên sự giá buốt và lạnh lẽo. Nhưng trong câu thơ dịch không thể truyền tải được tinh thần của nguyên tác: Sương móc rơi lác đác – lác đác là một tính từ cho thấy được sự thưa thớt của những hạt sương đang rơi. Tạo nên cảnh tượng mờ ảo và quyến rũ. Nguyên tác viết là Sương móc trắng xóa dày đặc, giăng mắc, bao phủ lấy không gian và cảnh vật. Màu trắng không phải để gợi ra sự tinh khôi và thanh khiết mà để gợi ra sự ảm đạm, hiu hắt và lạnh lẽo. Kết hợp với làn sương trắng xóa và hiu hắt chính là hình ảnh của rừng phong, vốn rừng phong khi mùa thu đến sẽ có màu đỏ, gợi ra sự ấm nóng và rực rỡ. Nhưng với làn sương trắng xóa bao phủ dày đặc, đã khiến cả rừng thu trở nên vô cùng xơ xác và tiêu điều. Sang tới câu thơ thứ hai, khắc họa rất rõ nét về sự ảm đạm và hiu hắt của khung cảnh thiên nhiên. Vu sơn và Vu giáp là những dãy núi chạy dài, dường như không có một khoảng trống nào. Vùng núi cao đó không bao giờ thấy được ánh sáng mặt trời nên vô cùng tăm tối, ảm đạm. Kết hợp với làn sương dày đặc lại càng khiến cho không gian thêm phần ảm đạm và hiu hắt hơn. Ba hình ảnh được kết hợp lại với nhau mang tới cho độc giả sự cảm nhận về bức tranh về cảnh thu ở nơi đất khách: lạnh lẽo, tiêu điều và hiu hắt tăm tối.

Nếu ở hai câu đề, tác giả đã bao quát cảnh thu theo chiều rộng thì tại hai câu thực, tác giả đã bao quát cảnh thu theo chiều cao: Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Câu thơ đã được tác giả sử dụng kết hợp giữa biện pháp nghệ thuật đối với phóng đại: Sóng vọt lên tận lưng trời; Mây sà xuống giáp mặt đất. Hai sự vật thiên nhiên đã vận động trái chiều với nhau: vọt lên và sà xuống, các động từ ấy đã nhấn mạnh hơn nữa về sự vận động ngược chiều ấy. Hai sự vật vận động ngược chiều nhau, ép sát vào nhau, khiến cho không gian bị ken đặc lại và bị lấp kín bởi sự mờ ảo, hoang vu của sông cùng với mây. Bức tranh thu hiện ra hùng vĩ nhưng lại âm u, dữ dội, đầy sự ngột ngạt.

Bốn câu đầu mở ra một không gian nhìn từ xa: rừng phong đến sông núi, cửa ải,… bốn câu phía sau mạch thơ có sự vận động lại gần, trước mắt tác giả chính là hình ảnh:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Với ý tứ sâu xa hơn, bản dịch thơ đã không thể truyền tải được hết những ý nghĩa của nguyên tác. Câu thơ thứ năm mang lại nhiều cách hiểu, khi nước mắt của chủ thể của hoạt động tuôn rơi đều bị ẩn đi hết. Câu thơ có thể hiểu rằng nước mắt tuôn rơi là của khóm cúc bởi những cánh hoa nở ra đều có hình giọt lệ, khóm cúc nở hoa cũng chính là khóm cúc đang rơi những giọt lệ. Nhưng cũng có thể hiểu rằng chủ thể của nước mắt chính là thi nhân. Cứ mỗi lần nhìn thấy khóm cúc nở hoa là một lần nhận ra rằng thời gian đang chảy trôi, mà mình thì đang bị ràng buộc ở đây mãi, càng thêm chạnh lòng, lại thức dậy với nỗi nhớ quê trong sự bất lực. Dù hiểu theo bất cứ cách nào thì câu thơ cũng chất chứa nỗi buồn đau của tác giả mỗi khi thấy hoa cúc nở. Khóm cúc đã hai lần nở hoa nhấn mạnh vào con số, hai năm – một khoảng thời gian gia đình tác giả đã bị lưu lạc và mắc lại tại mảnh đất Quỳ Châu. “Lưỡng khai” còn là con số nhằm ước lệ – số nhiều – gợi về nỗi đau triền miên và dai dẳng. Không chỉ năm nay hoa cúc nở mới làm đánh thức nỗi đau mà nỗi đau đó từ năm ngoái, cho thấy rằng đây là nỗi đau triền miên, dai dẳng và thường trực từ rất lâu. Nỗi đau trong sự bế tắc – nỗi đau thời thế, nỗi nhớ nhung quê hương tha thiết mà chẳng thể trở về quê hương.

Cảnh ngộ lẻ loi của tác giả đã thể hiện rõ ràng hơn thông qua hình ảnh “cô chu” – hình ảnh con thuyền cô đơn và lẻ loi. Đồng thời gợi ra một cảnh ngộ cô đơn, lẻ loi và trôi nổi ở nơi đất khách quê người của tác giả. Câu thơ trước hết là một hình ảnh thực: con thuyền chở gia đình của nhà thơ về quê đã bị mắc kẹt lại ở Quỳ Châu. Đằng sau nghĩa thực ấy là một hàm ý: gửi gắm nỗi nhớ quê hương buộc chặt trên con thuyền lẻ loi ở nơi đất khách. Chữ “buộc” trở thành nhãn tự cho câu thơ, vừa là sợi dây để buộc con thuyền, vừa là sợi dây thắt chặt lòng người.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Trong nỗi nhớ quê hương vô cùng da diết ấy, cảnh rộn ràng của tiếng dao thước may áo rét cùng với tiếng chày đập áo dồn dập càng cho thấy được rõ hơn nỗi niềm của người xa quê phải tha hương ở nơi đất khách quê người. Nhưng bên cạnh ấy hình ảnh đó còn cho thấy nỗi lo lắng cho đất nước vẫn chưa thể yên bình.

Với ngôn từ vô cùng hàm súc, cô đọng cùng với bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, tác giả Đỗ Phủ đã tái hiện một bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều và lạnh lẽo. Đằng sau bức tranh đó còn gửi gắm tâm trạng vào bài thơ: nỗi lo cho đất nước cùng nỗi nhớ quê hương và nỗi xót xa cho chính thân phận của mình.

Sổ tay Ngữ Văn tổng hợp các tips học văn hiệu quả giá chỉ bằng một cốc trà sữa. Nhanh tay đặt hàng thôi bạn ơi!!!

Mẫu số 3: 

Cuộc đời của Đỗ Phủ trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau: những năm ngao du thoải mái vô tư thời trai trẻ, những năm gia đình bị sa sút phải ăn chực nằm chờ sau những lần bị thi hỏng tại thủ đô Trường An, những năm bị ném vào dòng xoáy của thời đại trong chiến loạn An – Sử (giai đoạn 755 – 763), những năm sống trôi dạt đến cuối đời ở các tỉnh ở vùng tây nam của đất nước.

Khi chiến loạn vừa mới kết thúc, Đỗ Phủ đã có ý định dọc sông Trường Giang về đổng để tìm đường về với quê hương ở phía bắc.

Năm 765, Đỗ Phủ đã rời Thành Đô – thủ phủ ở tỉnh Tứ Xuyên, đưa gia đình ông phiêu bạt qua một số nơi rồi về trú ngụ tạm thời ở Quỳ Châu. Chùm thơ Cảm xúc mùa thu vô cùng nổi tiếng có chứa tám bài được sáng tác ở đây vào năm 766, chỉ bốn năm trước lúc nhà thơ qua đời.

Chùm thơ là một chỉnh thể trong đấy Cảm xúc mùa thu số 1, bài đã được chọn giảng, là “cương lĩnh sáng tác” cho cả chùm thơ. Nhà phê bình nổi tiếng Kim Thánh Thán đã từng nhận xét về tính chất chặt chẽ trong bố cục chùm thơ và vị trí cao của bài thơ Cảm xúc mùa thu số 1 là: “Bảo là liền thì mỗi bài đứt, bảo là đứt thì mỗi bài liền. Đổi vị trí một bài không được, thêm bớt một bài không được… Tất cả thơ này lấy bài thứ nhất làm đề cương, bởi vì bài ấy nói đến cái cảnh tiên sinh đường sống lúc bấy giờ. Đó chính là mùa thu tại Tây các (gác phía tây) phủ Quỳ, nhân thu mà khởi hứng. Câu đầu bảy thiên sâu nhất nhất đều do đó mà ra như áo chìm có cổ, như bông hoa có cuống, như hiệu lệnh của mười vạn binh phát xuất tự nơi trung quân”.

Quả nhiên có thể thấy được một cách đầy đủ ý nghĩa lẫn vẻ đẹp của bài Cảm xúc mùa thu số 1 khi đặt nó ở trong cả chùm thơ; tuy nhiên, vì đó là bài thơ có tính chất “đề cương” và “cương lĩnh”, mặt khác, với bảy bài còn lại, nếu “bảo là đút thi mỗi bài liền”, tức mỗi bài đều mang tính chất tương đối độc lập nên ta vẫn có thể và thực tế là đã có nhiều người phân tích nó giống như một chỉnh thể.

Cũng như với nhiều bài thơ Đường nổi tiếng khác nữa, chỉ có thể lý giải được đúng bài thơ Cảm xúc mùa thu số 1 nếu được chia tác phẩm thành hai phần: nửa trên, về cơ bản là việc tả cảnh tại Quỳ Châu và nửa dưới, về cơ bản là tả tình — cảm xúc của nhà thơ trước khung cảnh mùa thu ở Quỳ Châu.

Ở cặp câu thứ nhất (tức “liên thứ nhất” hay “liên đầu”, ta quen gọi đó là hai câu đề), bản dịch thơ đã tái hiện được khung cảnh mùa thu buồn bã song ở trong nguyên bản, không khí ấy còn thảm đạm hơn thế nhiều. Ở câu thơ thứ nhất, sương móc không phải là “sa lác đác” mà đó là sương dày đặc mới có thể làm tiêu điều và thương tổn (điêu thương) được cả một rừng phong; rừng phong không phải là một danh từ làm trạng ngữ để chỉ nơi chốn mà nó còn là đối tượng bị sương móc nhấn chìm một cách tàn nhẫn.

Ở câu thơ thứ hai của bản dịch, chữ “loà” cùng từ “hiu hắt” chỉ phần nào lột tả được thần thái của hai chữ tiêu sâm (tối tăm và ảm đạm) trong nguyên bản; chữ “ngàn non” đã thay thế cho hai danh từ riêng khiến cho bản dịch có phần dễ hiểu song lại làm mờ nhạt đi bản sắc của phong cảnh ở vùng Quỳ Châu. Hãy đọc đoạn sau đây ở thiên Sông ngòi trong cuốn Thuỷ kinh chú của Lịch Đạo Nguyên vào thời Lục triều: “Suốt cả vùng Tam Giác (Vu Giáp, Cù Đường Giáp và Tây Lăng Giáp) dài tới bảy trăm dặm, núi liên tiếp đôi bờ, tuyệt nhiên không có một chỗ trống. Vách đá điệp trùng đã che khuất đi cả bầu trời, chẳng thấy cả ánh nắng mặt trời lẫn với ánh sáng trắng… Mỗi khi trời vừa tạnh, trong buổi sớm sương mù, nơi rừng lạnh khe vắng thường có vườn ở phía cao hú dài, tiếng thê thảm dị thường, hàng trống truyền âm thanh vô cùng bi ai mãi chẳng dứt. Cho nên những người đánh cá mới có câu ca rằng: “Ba đồng Tam Giáp Vu Giáp trường – Viên minh tam thanh lệ triêm thường” (Ba kẽm ở phía đông đất Ba Thục thì kẽm Vu là dài nhất, Vượn kêu ba tiếng đã làm cho lệ rơi đầm áo xiêm)”.

Bình thường, cả khi trời tạnh, cảnh Vu Giáp đã tối tăm và ảm đạm; chiều thu, hẳn sẽ càng tối tăm và ảm đạm hơn; qua lăng kính của nhà thơ, lại tối tăm và ảm đạm gấp bội phần! Nếu ở câu thơ thứ nhất còn có chút ánh sáng, thể hiện được sự tương phản về màu sắc trắng – đỏ giữa sương móc chiều mùa thu và cánh rừng phong bạt ngàn thì tới đây, tất cả dường như bị chìm trong sự âm u… Hai câu thơ tiếp theo (tức “liên thứ hai” hay “liên cằm”, ta quen gọi đó là hai câu thực), mới đọc qua, tưởng như mở ra cả một viễn cảnh thoáng đãng hơn hết:

Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Quả ở đây, ngoài không khí âm u còn là một cảnh sắc hùng vĩ. Hùng vĩ vốn là một trong những nét vô cùng tiêu biểu của cảnh sông núi Quỳ Châu, mặt khác, cũng phản ánh về một nét trong tâm hồn hết sức cao quý của Đỗ Phủ: dẫu đau buồn đến tột độ, nhà thơ vẫn còn ấp ủ tráng chí. Tuy vẫn được vẽ dưới ngòi bút chấm phá quen thuộc của thể thơ Đường song thiên nhiên ở đây lại tuyệt nhiên không phải là những đường tiết tủn mủn và yếu ớt mà là rộng mở và rắn rỏi, tạo nên một bức tranh toàn cảnh vô cùng hoành tráng.

Tuy nhiên, đọc kĩ, sẽ thấy được ngay ở đây, nét bi thảm vẫn sẽ lấn át mặt hoành tráng. Hãy tưởng tượng xem, phần không gian để dành lại cho con người đã bị dồn ép đến mức nào, ngột ngạt và bất an tới nhường nào giữa những làn sóng vọt tận lưng trời và những làn mây đã sa sầm giáp với mặt đất ! Các chữ “rợn” và “đùn” ở bản dịch đã truyền đạt được thành công không khí rất hãi hùng của khung cảnh song vẫn khó thể hiện được một cách trọn vẹn ý nghĩa của nguyên tác, làm cho độc giả cảm nhận như là sóng và mây đang vận động cùng chiều trong khi chúng đang vận động ngược chiều nhau (“đùn” chỉ là bị đẩy từ trong ra phía ngoài hay từ dưới lên trên).

Cũng như ở nửa trên của bài Lên cao, trọng điểm ở bốn câu đầu tiên bài cảm xúc mùa thu số 1 là tả cảnh song trong cảnh đã thoáng lộ tình, đó là tình buồn (thông qua hình ảnh rừng phòng úa tàn, sương móc trắng xóa, khí thu mù mịt) nhưng xao động và dữ dội (thông qua hình ảnh đất trời chao đảo cùng sóng tung toé và mây vần vụ).

Hai câu thơ thứ năm và thứ sáu (tức “liên thứ ba” hay “liên cổ”, ta thường quen gọi đó là hai câu luận) được biết đến là tiêu biểu cho tinh thần của Cảm xúc mùa thu số 1 cùng với ba chữ “cố viên tâm” (ở câu thơ 6) lại được xem là “mắt rồng”, tức nơi tập trung linh hồn của cả một chùm thơ Cảm xúc mùa thu.

“Cố viên tâm” (tức nỗi lòng quê cũ) trước hết để chỉ “nỗi nhớ Lạc Dương (Hà Nam)”, quê quán của nhà thơ Đỗ Phủ, cũng là một trong những thành phố phải nói là phồn hoa nhất ở thời Đường. Đặt trong văn cảnh, nó còn chỉ là “nỗi nhớ Trường An, kinh đô nhà Đường” và rộng hơn hết, còn là một biểu hiện cho tình yêu quê hương và đất nước.

Trong bảy bài thơ Cảm xúc mùa thu tiếp theo, nhà thơ đã chỉ nói về nỗi nhớ Trường An, Trường An những ngày vẫn còn thái bình thịnh trị, lúc nhà thơ Đỗ Phủ còn là viên quan trong triều đình cũng như Trường An đương thời, nơi đang “thay đổi luôn luôn như một cuộc cờ”, nơi đang diễn ra những cuộc tranh chấp và giành giật quyền bính giữa nhiều thế lực phong kiến quân phiệt với sự can thiệp của nhiều thế lực ngoại tộc.

Hai câu thơ này cũng được xem như là danh cú (câu thơ hay câu văn nổi tiếng) xét về mặt đặc trưng cho thi pháp thơ Đường. Ở đây, tác giả đã đồng nhất rất nhiều sự vật và hiện tượng: tình với cảnh (nhìn hoa cúc nở mà dường như xoè ra những cánh hoa bằng nước mắt), hiện tại với quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng chính là giọt lệ của quá khứ gần – hai năm qua, kể từ ngày rời xa Thành Đô – và quá khứ xa), sự vật với con người (dây buộc thuyền cũng chính là dây thắt lòng người lại).

Đáng nói hơn nữa đó là những sự đồng nhất có vẻ phi lí đó lại có một cội nguồn cho hiện thực sâu xa. Trong chiến loạn An – Sử, không chỉ có con người bị huỷ diệt (trong tám năm, dân số Trung Quốc chỉ còn lại một phần ba) mà thiên nhiên cũng đã bị tàn phá. Hình ảnh “hoa nhỏ lệ” không chỉ xuất hiện một lần ở trong thơ Đỗ Phủ. Chữ tha nhật (trong nguyên tác) được một số người hiểu theo nghĩa là ngày sau, những ngày sắp đến song hầu hết đều cho là chỉ những ngày trước, những ngày qua.

Trước cảnh thu buồn, hồi ức về những nỗi đau ở trong quá khứ đã tập kết lại thời điểm hiện tại và đọng lại ở trên những nhành hoa. Bởi vậy, câu thơ dịch “Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ” của Nguyễn Công Trứ được đánh giá là rất đạt. Lệ của nhà thơ đã rơi trong hai năm qua chỉ là sự lặp lại và chồng chất lên những dòng lệ cũ. Trước chiến loạn An – Sử, nhà thơ nghèo khổ ấy đã từng rơi lệ khi mà đứa con trai “yêu nhất đời” đã bị chết đói giữa mùa gặt hái!

Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một hình ảnh ẩn dụ đích rất đáng không chỉ vì tính chất trôi nổi và đơn độc của nó mà còn vì nó chính là phương tiện duy nhất mà nhà thơ đã gửi gắm vào đó ước vọng được về quê, là địa chỉ trú ngụ đích thực cũng là chiếc “nhà nổi” của nhà thơ Đỗ Phủ trên con đường đi về phía đông để có thể kiếm cơ hội hồi hương.

Ở liên thứ tư (tức “liên đuôi” hay ta còn quen gọi là hai câu kết), tác giả đã kết thúc bài thơ một cách hết sức bất ngờ. Nhà thơ không bộc lộ trực tiếp ra cảm xúc chủ quan như thường lệ mà lại quay về để tả những cảnh thực ở ngoài đời: không khí tấp nập của mọi người đang nô nức may áo rét (ở câu 7) và giặt giũ áo cũ (ở câu 8) để chuẩn bị cho một mùa đông đang tới gần. Trong thơ cổ Trung Hoa, tiếng chày đập vải, nhất là khi chiều và đêm, là một loại âm thanh vô cùng đặc biệt có sức gợi cảm hết sức to lớn, chúng không làm cho những người khách ở xa xứ vui lây mà chỉ càng làm họ thêm não lòng.

Cũng giống như ở cuối của bài Lên cao (Đẳng cao), cuối bài Cảm xúc mùa thu số 1, tác giả đã sử dụng phương thức tả pha với kể để biểu cảm về đằng sau những câu thơ tưởng rằng lạnh lùng bình thản đó là cả một nỗi niềm đau thương quằn quại. Biểu hiện cảm xúc trước cảnh mùa thu là một đề tài đã có từ muôn thuở của thơ ca. Cảm xúc mùa thu số 1 là một tác phẩm rất độc đáo, tiêu biểu cho thành tựu nghệ thuật của nhà thơ Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối cuộc đời.

Qua đây, ta không chỉ thấy được hình ảnh cụ thể của một chiều thu tại Quỳ Châu mà còn thấy được cả tình cảnh và nỗi lòng của một con người cụ thể đã sống trong hoàn cảnh ấy. Chiến tranh phong kiến kéo dài liên miên và sự tranh giành quyền lực giữa những tập đoàn phong kiến trong giai đoạn cuối Thịnh Đường đã đẩy con người đó, vốn là một viên quan của triều đình, về tận góc trời thật xa thẳm và con người đó, ngày đêm chỉ có thể ôm ấp một hi vọng thật mong manh là được trở lại quê cũ.

Hẳn ước mơ của tác giả Đỗ Phủ cũng chính là ước mơ của biết bao người dân nghèo khổ đang lưu vong ở thời Đường. Bởi vậy, bài thơ tuy không chỉ miêu tả trực tiếp tình hình xã hội mà vẫn chan chứa tình đời cùng với giá trị hiện thực sâu sắc.

Mẫu số 4:

Nhắc tới Trung Quốc, không ai là không biết tới nhà thơ nổi tiếng Đỗ Phủ (sinh năm 712, mất năm 770). Ông có hàng ngàn những bài thơ phong phú và sâu sắc, chủ yếu là viết về sự ảnh hưởng của thời đại với đời sống người dân cũng như với chính bản thân mình. Ông có rất nhiều tác phẩm kiệt tác, trong số ấy có bài thơ “cảm xúc mùa thu” là bài thơ thứ nhất ở trong chùm thơ “thu hứng” viết năm năm 766, khi ông đang cùng gia đình đi chạy nạn tại Quỳ Châu. “Cảm xúc mùa thu” vừa là một bức tranh mùa thu ảm đạm và hắt hiu, vừa là một bức tranh thể hiện tâm trạng u sầu trĩu nặng của nhà thơ trong hoàn cảnh đất nước đang rối ren và loạn lạc.

Bài thơ được chia làm hai phần, bốn câu thơ đầu tiên tác giả đã tả cảnh mùa thu ảm đạm và hắt hiu. Bốn câu thơ phía sau là tả tình, chính là cảm xúc của tác giả khi đứng trước khung cảnh mùa thu, nỗi nhớ quê cùng với nỗi niềm dân nước.

Hai câu thơ đầu tiên được nhìn trong một tầm bao quát rộng và xa:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Tác giả đã đặt điểm nhìn của bản thân từ rừng núi xuống dưới dòng sông, bao quát theo chiều rộng. Nhắc tới phong người ta sẽ liên tưởng tới mùa thu vì mỗi đợt mùa thu về thì rừng phong lại đỏ úa cũng thể hiện được sự ly biệt và buồn thương. Vậy mà sương móc trắng xóa và dày đặc đã làm xơ xác cả một rừng phong càng hiện ra vẻ tiêu điều và lạnh giá. Nét tiêu điều của cảnh vật được hiện lên rất rõ nét trong mắt của nhà thơ. Câu thơ thứ hai lại càng làm nổi lên thêm sự lạnh lẽo “Vu sơn, Vu giáp” chính là hẻm Vu hiểm trở và hùng vĩ vách dựng đứng cho nên ánh mặt trời khó có thể lọt xuống dưới lòng sông. Vào mùa thu không khí thực sự lạnh lẽo ảm đạm trong cái nhìn chứa đầy tâm trạng của nhà thơ càng thêm hiu hắt và ảm đạm. Qua hai câu đầu tiên tả về cảnh núi rừng mùa thu, sự tiêu điều, hiu hắt và bi thương lan tỏa khắp không gian khác hoàn toàn với cảnh mùa thu trong thơ ca truyền thống. Chính sự đau buồn đó, Đỗ Phủ đã viết lên những lời thơ vô cùng sâu sắc:

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tại thượng phong vân tiếp địa âm.

Trong hai câu thơ ấy có một hình ảnh đối lập vô cùng thú vị, sóng vọt lên đến tận lưng trời, rồi mây sa sầm xuống dưới mặt đất, từ thấp đến cao rồi từ cao xuống dưới thấp, sự vận động trái chiều và rất triệt để. Cảnh thu cũng chuyển động dữ dội tạo ra một bức tranh thu vừa hùng vĩ lại vừa bi tráng. Sự chuyển động chao đảo của mọi cảnh vật, cũng là sự chao đảo của xã hội lúc bấy giờ. Lời thơ cũng chính là nỗi lòng thương nhớ trong sự tuyệt vọng trước thời thế lúc ấy của nhà thơ. Bốn câu thơ tả cảnh rất cụ thể đặt cạnh nhau làm toát ra bức tranh mùa thu rộng lớn vừa tiêu điều, hiu hắt lại vừa dữ dội, hùng vĩ. Chính cảnh vật đó vừa gợi ra nỗi buồn tê tái lại vừa ngầm thể hiện được nỗi lo âu của nhà thơ về sự không yên bình ở nơi biên ải.

Cảnh mùa thu ở phần thứ nhất đã khơi gợi được cái tình trong lòng nhà thơ. Bốn câu thơ sau nói về nỗi nhớ quê nhà cùng nỗi niềm dân nước.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Cúc là một loài hoa đặc trưng của mùa thu, biểu tượng cho niềm vui và vẻ đẹp vậy mà khi nhìn nó lại thấy nhỏ lệ, gợi ra một nỗi buồn vô cùng sâu lắng của nhà thơ, nhìn hoa cúc để nhớ về những mùa thu ở quê nhà mà lòng u sầu và nghẹn ngào. Chữ “lệ” ở trong bài thơ rất khó phân biệt đó là lệ của người hay của hoa, tuy nhiên có thể như sau: mỗi lần nhìn bông hoa cúc nở, nhà thơ lại thấy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Những giọt nước mắt cũng cứ thế tuôn trào và không ngăn lại được, hình ảnh của bông hoa cúc nở rồi lại nở vừa gợi về sự trở đi trở lại của nỗi nhớ quê nhà, vừa gợi ra về những dòng lệ chất chứa ân tình của nhà thơ. “Cô chu” là con thuyền cô độc, khi nhìn thấy con thuyền này thì nỗi lòng tác giả càng thêm dâng trào, càng thêm nhớ quê da diết. Hình ảnh của con thuyền trôi nổi và lưu lạc, là phương tiện duy nhất mà nhà thơ có thể gửi gắm ước nguyện về quê, “hệ cố viên tâm” rất đặc biệt như đang buộc chặt nỗi lòng của con người với quê nhà như con thuyền muốn trôi về quê hương. Bằng nghệ thuật ẩn dụ hết sức tinh xảo, hai câu thơ đã biểu hiện nỗi nhớ quê hương một cách sinh động, tha thiết và sâu lắng của nhà thơ.

Hai câu cuối chính là âm thanh sinh động đã được lột tả:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ chân.

Cảnh nhộn nhịp người người đi may áo rét, cảnh mọi người giặt rũ áo cũ âm thanh của tiếng chày đập vải đang nhộn nhịp trên sông để chuẩn bị cho một mùa đông sắp tới, vẽ lên một cuộc sống sinh hoạt đầy sự vui tươi và nhộn nhịp, vang động thì lại càng xoáy sâu vào lòng người về nỗi nhớ quê hương đến tê tái, khuôn nguôi, nhớ tới cuộc sống bình yên nơi quê nhà và càng mong muốn trở về quê da diết hơn. Trời tối rồi, nhà thơ không còn nhìn thấy gì nữa mà chỉ có thể nghe tiếng chày đập vải, càng chạnh lòng nhớ những người lính ở nơi quan ải.

Bằng việc sử dụng không gian dài và rộng lại vừa cao và sâu, thấp lên cao hay từ cao xuống thấp cùng với những phép ẩn dụ đặc sắc và đối xứng chặt chẽ. Cách sử dụng rất hay trong bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ chứa đựng cảm xúc, dùng quá khứ để nói hiện tại. Bài thơ đã miêu tả về một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ nhưng lại hiu hắt, sôi động mà lại nhạt nhòa trong sương khói của mùa thu, đồng thời hiện diện một tâm trạng rất buồn và xót xa với nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ.

Bài thơ ” Cảm xúc mùa thu” là một bài thơ rất hay và vô cùng ý nghĩa. Bài thơ là nỗi lòng nhớ quê hương của tác giả khi phải rời xa quê trong lúc loạn lạc. Bài thơ như nhắc nhở chúng ta cần phải yêu quê hương mình và trân trọng nơi mà chúng ta đã sinh ra.

Mẫu số 5:

Thơ Đường vốn rất nghiêm ngặt về niêm, luật và bố cục. Song những quy luật rất khắt khe ấy không hề trói buộc những bậc thánh thi như nhà thơ Đỗ Phủ. Dưới ngòi bút thi nhân, bài thơ vẫn tuân thủ niêm luật chặt chẽ lại thể hiện được sự bay bổng tự do, tạo nên một vẻ đẹp đa dạng giống như vẻ đẹp của một viên ngọc được soi rọi từ nhiều hướng khác nhau. Bài Thu hứng không nằm ngoài những đặc điểm nói trên

Xét theo khía cạnh nội dung miêu tả chung, bài Thu hứng có bố cục hai phần rất rõ rệt: bốn câu đầu để tả cảnh, cảnh núi sông tại vùng Quỳ Châu, thượng nguồn Trường Giang, nơi nhà thơ Đỗ Phủ đã lưu lạc tới vì chạy giặc An Lộc Sơn. Bốn câu dưới để tả tính, tình của một kẻ lữ thứ tha hương. Cảnh này và tình ấy tạo nên một sự thống nhất cho bài thơ.

Bốn câu đầu tiên của bài thơ tả cảnh mùa thu. Trước tiên đây là khung cảnh mùa thu của một địa điểm xác định. Người ta biết đây là tả khung cảnh tại vùng Quỳ Châu thuộc thượng nguồn sông Trường Giang không chỉ tại địa danh Vu Sơn và Vu Giáp được nhắc tới ở câu thứ hai mà đó chính là ở cảnh vật đặc trưng của vùng này đã được miêu tả trong bài thơ. Đó là cảnh rừng phong phủ đầy sương móc trắng, là khung cảnh vách núi dựng đứng lúc trời mù mịt, là núi Vu cao vút và hiểm trở.

Cả một bức tranh phong cảnh vô cùng hùng vĩ mà âm u đã hiện ra thông qua ngòi bút của nhà thơ Đỗ Phủ. Bức tranh ấy có lớp lang chặt chẽ, hiện dần ra theo bước chân con người. Thoạt đầu là cảnh rừng phong mờ trắng sương mù. Vượt qua cánh rừng ấy, Vu Sơn và Vu Giáp hiện ra thông qua một nét phác họa chung tại câu thơ thứ hai. Câu thứ ba và thứ tư đặc tả hai cảnh vật tiêu biểu nhất của núi Vu và kẽm Vu. Như vậy, bức tranh vừa có toàn cảnh lại có cận cảnh, có sự bao quát và chi tiết, chứng tỏ đây là một ngòi bút miêu tả vô cùng điêu luyện và linh hoạt.

Cái thần của bức tranh chính là cảm xúc mà nhà thơ muốn gửi gắm trong từng nét vẽ lan tỏa đến lòng người đọc. Câu thơ thứ nhất bao gồm bảy chữ, có hai chi tiết để miêu tả, chi tiết nào cũng gợi ra nỗi buồn, từ cái lạnh lẽo của màu trắng sương móc bao phủ lên mọi vật, từ cái vẻ tang thương, u ám của rừng phong tiêu điều. Còn cái hiu hắt của hơi thở mùa thu ở câu thứ hai lại càng làm tôn lên nỗi buồn bàng bạc đã thấm đượm trong câu phía trên.

Hai câu thơ, ba sự miêu tả chi tiết: nỗi buồn ngày càng lan rộng, càng sâu khiến cho mọi cảnh vật tuy hùng vĩ nhưng lại buồn bã, bí hiểm và u hoài. Tới hai câu ba và bốn, cảnh vật vừa có sự nhất quán với hai câu phía trên, vừa có thêm sự phát triển. Trong khi đặc tả núi Vu và kẽm Vu, mỗi nơi tác giả đều tả một chi tiết khiến cảnh vật sống động hẳn lên. Sóng thì ba lãng kiêm thiên dũng (vọt lên đến tận lưng trời), vừa vẽ ra chiều cao thăm thẳm của kẽm Vu lại vừa tạo được sự chuyển động dữ dội và mạnh mẽ.

Cảnh đám mây “sa sầm giáp mặt đất” không chỉ để tả về độ cao của cửa ải ở trên núi Vu mà còn vẽ nên sự giận dữ của mây và núi. Sông với trời, mây với núi không còn ở trong trạng thái tỉnh, u hoài như cảnh vật ở hai câu thơ trên mà đang được chuyển động với một nội lực vô cùng lớn lao, tạo ra vẻ đẹp hết sức hoành tráng cho bức tranh. Cả hai cảnh ấy bổ sung cho nhau, tạo ra sự thống nhất hết sức đa dạng của cảm xúc toát ra từ trong bức tranh: sự trầm uất, bi tráng. Đó cũng là phong cách thơ của tác giả Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời.

Đứng trước cảnh sắc đó, một người giàu tình cảm như nhà thơ Đỗ Phủ làm sao không nhớ đến quê cho được? Chính từ sự vận động nội tại ấy, bốn câu thơ phía sau xuất hiện thật tự nhiên và hợp lẽ. Bốn câu thơ sau để tả tình nhưng không tách biệt với cảnh, tình với cảnh luôn quấn quýt bên nhau. Hai câu thơ 5 và 6 biểu hiện rất sinh động lòng nhớ quê với rất nhiều thủ pháp sinh động. Trong bảy chữ của câu thứ 5, tình và cảnh như được thống nhất: hoa cúc nở mà nhìn trông như cành hoa bằng nước mắt hư ảo và chập chờn, hiện tại với quá khứ như nối liền: “giọt lệ ngày trước” bỗng rơi cùng với giọt lệ ngày hôm nay.

Cái trục nối liền đó tạo ra sự đồng nhất chính là hai chữ lưỡng khai với rất nhiều hàm ý, làm cho hình ảnh hoa cúc và lệ có phần đa nghĩa. Hình ảnh của con thuyền trong câu thơ thứ 6 cũng được tạo ra cùng một cảnh như của hình ảnh trong câu 5. Chữ cô cũng tạo được nhiều nghĩa hàm ẩn: vừa là buộc con thuyền lẻ loi ở nơi nhà thơ đang sinh sống ở lại nơi đây, vừa có nghĩa là thắt lại và gói lại nỗi lòng thương nhớ quê hương.

Những cảm xúc dồn dập đã được tả trong câu 5 và 6 tưởng như sẽ được miêu tả một cách trực tiếp và nâng cao hơn với hai câu kết. Nhưng đến đây bài thơ bỗng chuyển từ tả tình sang tả cảnh sinh hoạt đời thường. Cảnh mọi người đang nhộn nhịp may áo rét và giặt giũ áo cũ. Tưởng như hai cảnh ấy không ăn nhập với tình kia, tưởng như ý bài thơ đã bị lạc. Song không phải như thế. Đây là một thủ pháp giúp dồn nén tình cảm vào trong hình ảnh để cho lời thơ và ý thơ thêm phần sâu sắc, có sức rung động mạnh hơn với người đọc.

Âm thanh đập áo vốn là một thứ âm thanh có sức gợi cảm rất lớn trong thơ cổ Trung Quốc, gợi nhớ đến người thân đi xa, diễn tả một nỗi lòng vô cùng nhớ thương và chờ đợi. Bạch Cư Dị đã tả nỗi lòng của một người thiếu phụ vào đêm tháng tám, tháng chín nghe tiếng chày đập lụa mà cảm thấy “sáng ra e bạc cả đầu”. Cho nên sự xuất hiện của tiếng chày trong bóng chiều tà đã tạo nên một dư âm vang vọng khắp cả bài thơ.

Nỗi nhớ quê hương tha thiết của tác giả Đỗ Phủ trong một mùa thu tập loạn đã được bộc lộ trong bài thơ này đâu chỉ là tâm trạng của một con người. Nó là nỗi lòng của hàng trăm người đang lầm than vì phải chịu cảnh chiến tranh, giặc giã liên miên sau loạn An Lộc Sơn đời Đường đang rời xa quê hương, phiêu bạt ở nơi góc biển chân trời.

 

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

 

Trên đây là toàn bộ những câu trả lời cùng với dàn ý và bài văn mẫu thuộc phần Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ. Các em hãy đọc thật kỹ để đạt được điểm cao khi gặp dạng bài này. Ngoài ra, nếu các em muốn học thêm về những thể loại văn học khác của chương trình ngữ văn nói riêng hay kể cả những kiến thức thuộc môn học khác nữa, các em hãy nhanh chóng truy cập vào website của VUIHOC là vuihoc.vn để có thể đăng ký khóa học sau đó trải nghiệm học tập cùng thầy cô VUIHOC ngay nhé!

>> Mời bạn xem thêm: 

Banner afterpost lớp 10
| đánh giá
Hotline: 0987810990