Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (kịch bản văn học) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bộ phim) - Chân trời sáng tạo
Bài nghị luận về một tác phẩm thường phải nêu ra những cảm nhận, suy nghĩ về mặt nội dung và hình thức, nhận xét và đánh giá về tác phẩm đang được bàn luận. Để hiểu rõ hơn, dưới đây là soạn bài soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (kịch bản văn học) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bộ phim).
1. Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (kịch bản văn học) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bộ phim) - Ngữ liệu tham khảo 1
1.1 Câu 1 trang 136 SGK Văn 11/1 Chân trời sáng tạo
Vấn đề nghị luận ở trong văn bản là gì?
Phương pháp giải:
Từ ngữ liệu, hãy xác định vấn đề nghị luận.
Lời giải chi tiết:
Vấn đề nghị luận ở trong văn bản chính là xung đột trong bi kịch Vũ Như Tô.
1.2 Câu 2 trang 136 SGK Văn 11/1 Chân trời sáng tạo
Người viết đã đưa ra những lí lẽ và bằng chứng gì để khẳng định: xung đột quyết liệt trong tác phẩm bi kịch Vũ Như Tô của tác giả Nguyễn Huy Tưởng là xung đột giữa nghệ sĩ với nhân dân trong văn bản?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ văn bản sau đó xác định những lí lẽ và bằng chứng người viết sử dụng để khẳng định: xung đột quyết liệt trong tác phẩm bi kịch Vũ Như Tô của tác giả Nguyễn Huy Tưởng là xung đột giữa nghệ sĩ với nhân dân trong văn bản.
Lời giải chi tiết:
Những lí lẽ và bằng chứng người viết sử dụng để khẳng định xung đột quyết liệt trong tác phẩm bi kịch Vũ Như Tô của tác giả Nguyễn Huy Tưởng chín là xung đột giữa nghệ sĩ với nhân dân ở trong văn bản:
- Lý lẽ 1: Vũ Như Tô nghệ sĩ tài trời đã ngoại tứ tuần mà vẫn chưa làm nên sự nghiệp, phải chọn lựa giữa các con đường và mỗi con đường đều oan nghiệt theo một kiểu: hoặc là từ chối thiên chức hoặc là tự sát hoặc là tuân lệnh sau đó mượn tay Lê Tương Dực nhằm thực hiện mộng lớn.
+ Ông đòi vua cho mình toàn quyền làm việc, kẻ nào dám tái lệnh chém bêu đầu. Công trình với năm vạn thợ bên trong cùng mười vạn thợ bên ngoài được so sánh với cuộc chiến tranh ở nước ngoài.
+ Cái quyền sống của nhân dân đã bị hi sinh không thương tiếc trong cuộc chiến đó được phát lên nhiều lần và từ nhiều miệng…
Quyền lợi của quần chúng nhân dân đã được tác giả bênh vực bằng những phương tiện nghệ thuật chứa đầy tính thuyết phục, không thể đặt chúng xuống phía dưới phạm trù “cái nhất thời” mà để hi sinh cho “cái vĩnh cửu” được.
- Lí lẽ 2: Nếu quan niệm về hoạt động sáng tạo là sự thực hiện mệnh lệnh của cái đẹp và việc bảo vệ quyền sống với các quyền chính đáng khác của con người là sự thực hiện mệnh lệnh cho cái thiện, thì trước chúng ta là cuộc xung đột khốc liệt giữa cái đẹp với cái thiện.
⇒ Xung đột quyết liệt giữa nghệ sĩ với nhân dân: Nghệ sĩ đang mượn tay vương quyền >< Nhân dân không chấp nhận được sự áp đặt.
1.3 Câu 3 trang 136 SGK Văn 11/1 Chân trời sáng tạo
Em đã rút ra được những lưu ý gì khi viết một văn bản nghị luận về một vở bi kịch sau khi đọc văn bản trên?
Phương pháp giải:
Từ văn bản trên, đúc kết lại những nội dung của văn bản sau đó rút ra những lưu ý khi viết một văn bản nghị luận về một vở bi kịch.
Lời giải chi tiết:
Những lưu ý khi viết một văn bản nghị luận về một vở kịch từ văn bản phía trên đó là:
- Lựa chọn vấn đề bàn luận sao cho phù hợp vì nội dung và hình thức của một vở kịch thường sẽ bao gồm nhiều khía cạnh và nhiều vấn đề cần quan tâm đến.
- Các luận điểm cần phải hết sức rõ ràng và mạch lạc để có thể làm sáng tỏ được luận đề của bài viết
- Khẳng định lại luận đề sau khi đã phân tích.
Đăng ký ngay khóa học PAS THPT để được thầy cô lên lộ trình ôn thi tốt nghiệp ngay từ bây giờ nhé!
2. Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (kịch bản văn học) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bộ phim) - Ngữ liệu tham khảo 2
2.1 Câu 1 trang 137 SGK Văn 11/1 Chân trời sáng tạo
Vấn đề nghị luận của văn bản là gì?
Phương pháp giải:
Tìm hiểu nội dung của ngữ liệu tham khảo 2 sau đó chỉ ra vấn đề nghị luận trong văn bản.
Lời giải chi tiết:
Vấn đề nghị luận của văn bản đó là: Nước trở thành một hình tượng xuyên suốt Mùa len trâu, thành một thứ ngôn ngữ phim truyện rất riêng và độc đáo.
2.2 Câu 2 trang 137 SGK Văn 11/1 Chân trời sáng tạo
Việc người viết trích dẫn quan điểm của Nguyễn Võ Nghiêm Minh, đạo diễn phim Mùa len trâu và nhiều lần liên hệ tới tập truyện Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam nhằm mục đích gì?
Phương pháp giải:
Quan sát nội dung, sau đó liên hệ với phần trích dẫn ý kiến của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh phim Mùa len trâu và nhiều lần liên hệ tới tập truyện Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam, chỉ ra mục đích của người viết.
Lời giải chi tiết:
Người viết trích dẫn quan điểm của Nguyễn Võ Nghiêm Minh, đạo diễn phim Mùa len trâu và nhiều lần liên hệ tới tập truyện Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam nhằm mục đích: đưa dẫn chứng cụ thể hơn vào bài để có thể làm rõ và xác thực được quá trình chuyển thể từ tập truyện sang phim ảnh, thể hiện ý kiến về hình tượng nước ở trong phim thông qua tác phẩm với giá trị hiện thực của người đạo diễn.
2.3 Câu 3 trang 137 SGK Văn 11/1 Chân trời sáng tạo
Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm phim truyện có gì giống và khác biệt với viết văn bản nghị luận về một kịch bản văn học?
Phương pháp giải:
Từ nội dung những ngữ liệu tham khảo phía trên, so sánh điểm giống nhau và khác nhau về văn bản nghị luận về một tác phẩm phim truyện với văn bản nghị luận về một kịch bản văn học.
Lời giải chi tiết:
Đặc điểm |
Văn bản nghị luận về một kịch bản văn học |
Văn bản nghị luận về một tác phẩm phim truyện |
Giống nhau |
Nội dung với hình thức của 1 kịch bản văn học hoặc một tác phẩm phim truyện đều mang nhiều khía cạnh và vấn đề khác nhau có thể gợi ra một hoặc nhiều vấn đề cần phải bàn luận. |
|
Khác nhau |
Nội dung chính: xung đột giữa bi kịch cùng với hành động trong bi kịch. Từ xung đột, cốt truyện với hành động của những nhân vật chính → Gửi gắm thông điệp liên quan đến xã hội, vấn đề |
Nội dung chính thể hiện thông qua hình ảnh và hành động của nhân vật vì thế ít chi tiết hơn so với ngôn ngữ trong kịch. |
3. Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (kịch bản văn học) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bộ phim): Thực hành viết
3.1 Bài viết tham khảo 1: Cảm nhận về giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật của “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”
Mẫu tham khảo 1:
Nguyễn Huy Tưởng đã tạo ra một câu chuyện về nhân vật Vũ Như Tô từ một sự kiện lịch sử có thật vào thế kỉ XVI, Nguyễn Huy Tưởng đã hư cấu và sáng tác vở kịch Vũ Như Tô, một vở kịch hiện đại mang yếu tố bi kịch, đặt ra vấn đề vô cùng quan trọng: số phận của nghệ thuật và của người nghệ sĩ trong hoàn cảnh đất nước đang bị chìm đắm bởi chế độ phong kiến thối nát.
Tác giả đã xây dựng nên một nhân vật trung tâm của vở kịch hết sức đặc biệt, đó chính là người nghệ sĩ tài ba, ngàn năm chưa hề có một người như nhân vật Vũ Như Tô. Người kiến trúc sư thiên tài ấy có lí tưởng nghệ thuật và ham mê cái đẹp cùng khao khát sáng tạo cái đẹp nhưng không nhận thức được mâu thuẫn giữa lí tưởng nghệ thuật với hoàn cảnh thực tế của nhân dân đang ngày ngày bị đày đọa và giết hại trong quá trình xây Cửu Trùng Đài nên cuối cùng phải trả giá bằng chính sinh mệnh bản thân một cách bi thảm.
Vũ Như Tô vẫn không thể nào thoát ra khỏi trạng thái mơ màng và ảo vọng của chính mình. Ông không tin rằng, công trình cao cả mà mình làm lại có thể bị xem là tội ác, cũng như không thể nào tin được sự quang minh chính đại của bản thân lại bị rè rúng và nghi ngờ. Sự vỡ mộng của Vũ Như Tô vì thế là rất đau đớn và kinh hoàng gấp bội lần khi so với Đan Thiềm. Nỗi đau ấy bộc lộ ra thành tiếng kêu vô cùng bi thiết và âm điệu não nùng, khắc khoải chẳng những trở thành một âm hưởng chủ đạo bao trùm lên đoạn kết đã đành, mà còn là một thứ chủ âm dội ngược lên tất cả những phần trước của vở kịch. "Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!". Đó cũng chính là những tiếng kêu cuối cùng của Vũ Như Tô khi mà ngọn lửa oan nghiệt đang bùng bùng thiêu rụi lấy Cửu Trùng Đài, ngay sau đó tác giả của nó bị dẫn vào pháp trường. Trong tiếng kêu đó, mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài đã được nhân vật Vũ Như Tô đặt kế tiếp nhau và nỗi đau mất mát như nhập hòa lại làm một, một nỗi đau bi tráng đến tột cùng.
Tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ đã tự sát, nghe tên nội gián thông báo về kẻ phá, người đốt Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vẫn cho đó là điều hết sức vô lý. Nghe tiếng quân lính reo hò truy tìm mình nhằm phanh thây, Vũ Như Tô vẫn cố gắng đấu lý với số phận và với cuộc đời: Có lý gì để họ giết tôi? Đứng trước đội quân khởi loạn gươm giáo sáng lòa, Vũ Như Tô tự trấn an bản thân: Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài vĩ đại để tạ lòng tri kỷ. Bị ra lệnh dẫn về trình chủ tướng, Vũ Như Tô vẫn còn hy vọng sẽ có thể phân trần và giảng giải cho người đời biết rõ về nguyện vọng của ta. Ông dường như không hề nghe thấy bất cứ tiếng cười ầm ĩ và lời quát tháo của bọn binh lính. Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày còn hơn oán quỷ. Ông vẫn say sưa trong giấc mộng về Cửu Trùng Đài: Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai…
Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng nên nhân vật Vũ Như Tô cùng với những khát vọng nghệ thuật cao cả, nhưng khát vọng về nghệ thuật đó lại xa rời thực tế. Vũ Như Tô và Đan Thiềm coi Cửu Trùng Đài như cả phần xác lẫn phần hồn trong cuộc đời mình. Vì nó mà Vũ Như Tô đã chấp nhận làm việc cho hôn quân bạo chúa. Vì nó mà dù có bị thương trên công trường, ông vẫn muốn được tiếp tục chỉ đạo công việc. Cũng vì nó, để giữ gìn kỷ luật, ông buộc phải trị tội những người thợ dám bỏ trốn. Cũng lại vì nó mà ông đã quyết định ở lại trong cung cấm, giữa cơn biến loạn nhằm bảo vệ không phải mạng sống của bản thân mà là bảo vệ Cửu Trùng Đài - sinh mạng nghệ thuật của cả cuộc đời ông.
Có thể nói rằng thông qua đoạn trích này ta đã thấy nó mang đầy đủ các yếu tố để làm nên một vở kịch vô cùng hấp dẫn và dường như tất cả những xung đột kịch được nhà văn xây dựng rất lôi cuốn hấp dẫn. Chính cái không khí nhịp điệu thì dường như cứ tăng lên dần dần tạo nên một tính chất vô cùng gay gắt của xung đột kịch. Nhà văn đã thật sự tài tình khi thắt nút sau đó lại mở nút nhưng kết cục tóm lại vẫn là bi kịch. Qua đây Nguyễn Huy Tưởng cũng đã thể hiện được quan niệm nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống hằng ngày. Nghệ thuật chân chính nhất sẽ không thể tách rời được cuộc sống.
Mẫu tham khảo 2:
Từ một sự kiện lịch sử có thật vào thế kỉ XVI, Nguyễn Huy Tưởng đã sử dụng tài năng của mình để hư cấu và sáng tạo nên vở kịch hiện đại “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” bao gồm 5 hồi mang đậm nỗi trăn trở của ông về số phận của những cái đẹp và số phận của người nghệ sĩ trong thực trạng của xã hội phong kiến thời bấy giờ.
Chỉ là một đoạn trích nhưng mang đủ các yếu tố của một vở kịch : có thắt nút (đó là xung đột), xung đột cao trào và mở nút (giải quyết được xung đột). Không khí và nhịp điệu của sự việc được diễn tả theo chiều tăng dần mức độ dồn dập đã thể hiện được tính chất rất gay gắt của mâu thuẫn và dần đẩy xung đột kịch lên tới cao trào. Cửu Trùng Đài và Vũ Như Tô chính là cái nút của mâu thuẫn. Xung đột đã được giải quyết bằng việc ra đi vĩnh viễn của cả hai yếu tố ấy. Với cả vở kịch, đoạn trích này chính là phần cao trào, sau đó giải quyết mâu thuẫn lớn nhất cho cả vở kịch.
Đoạn trích đã thể hiện rất rõ đặc sắc về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: Ngôn ngữ kịch hết sức điêu luyện và có tính tổng hợp cao. Đặc biệt, nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ và hành động của nhân vật nhằm khắc họa tính cách, cũng như dẫn dắt tình tiết vở kịch. Từng đoạn hội thoại hay từng ngôn ngữ mà nhân vật phát ra đều khắc họa được những cảm xúc và tình cảm mà họ dành cho nhau, cũng như chính bản chất trong con người của họ lúc gặp biến cố. Nhịp điệu kịch càng ngày càng tăng tiến, nhất là khi gần đến cao trào và cuối cùng là ở thắt nút cho thấy được khung cảnh hết sức dồn dập lúc ấy của câu chuyện. Bên cạnh đó, còn có những đoạn chú thích đã được tác giả in nghiêng để trong ngoặc đơn, giúp cho người đọc có thể hình dung ra rõ hơn về diễn biến và nội dung xung đột kịch cũng như hành động của các nhân vật, qua đó nó càng thể hiện được rõ nét hơn về mỗi cá nhân nhân vật.
Cụ thể hơn, ở lớp I hay lớp V, đối với nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Là sự tôn trọng của cả hai người dành cho nhau. Đan Thiềm gọi Như Tô là “ông cả” một cách đầy sự kính trọng, bà lo lắng khi xảy ra biến cố. “Ông nghe tôi! Ông trốn đi! Ông nghe tôi! Ông phải trốn đi mới được!” hay là “tránh đi! Trốn đi”. Lời nói vừa ngắn gọn lại gấp gáp cùng với những dấu chấm than đã thể hiện được sự lo lắng cũng như điều mình nói là hoàn toàn đúng đắn, nhất định phải làm theo của nhân vật Đan Thiềm, cho thấy được tình cảm hết sức chân thành của bà dành cho Vũ Như Tô. Khác với sự lo lắng của Đan Thiềm, lại là sự bình tĩnh hết mực của Vũ Như Tô, ông khẳng khái tuyên bố rằng “Phá Cửu Trùng Đài? Không đời nào! Mà tôi thì không làm gì nên tội. “Họ hiểu nhầm” hay “Bà ở đây, vậy tôi cũng ở đây, nguy biến ta cùng chịu.” lời văn tuy ngắn gọn nhưng bao quát được cả tấm lòng cũng như con người của mỗi nhân vật. Đan Thiềm lo lắng cho số phận của con người mà bà quý mến – con người vô cùng tài giỏi, Vũ Như Tô khẳng khái tin chắc rằng công lí sẽ luôn bảo vệ những điều mà ông ngày đêm cố gắng vì sự vẻ vang của non sông đất nước. Bà là một người bạn tốt, có hoạn nạn thì cùng chia sẻ.
Mỗi một đoạn hội thoại ngắn lại mang cả một tâm trạng và một cảm xúc lớn lao của nhân vật. Ngôn ngữ rất dung dị, đời thường giữa những người thân quen với nhau, nhưng vẫn thể hiện được rõ cảm xúc hiện có của mỗi người một cách tinh tế và sâu sắc. Nhân vật chính ở đây là Vũ Như Tô – một người nông dân vô cùng tài giỏi, vì nghệ thuật, cố gắng sử dụng nghệ thuật nhằm phục vụ cho đất nước và bảo vệ tới cùng lí tưởng nghệ thuật của ông đã được khái quát rất rõ ràng chỉ bằng một vài câu hội thoại ngắn gọn. Đặc biệt, ở lớp IX, điều này đã được thể hiện rất rõ, khi quân sĩ dẫn Vũ Như Tô vào pháp trường, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ nhân vật nhằm khắc họa thêm mâu thuẫn giữa con người nghệ sĩ với con người công dân trong ông thông qua các câu đối thoại, độc thoại và qua hành động:
“VŨ NHƯ TÔ (nhìn ra, rú lên). – Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đại!” Vũ Như Tô bàng hoàng và đau đớn trước cảnh tượng đứa con tinh thần mà mình đã đặt hết tất cả vào gây dựng đang bị thiêu rụi và dĩ nhiên là những gì ông tin rằng mọi người sẽ công nhận hay nói cách khác là những cống hiến của ông cũng trở thành một điều gì đó vô cùng xa xỉ ngay lúc này.
Tới đây thì ta có thể thấy được rõ tác dụng của ngôn ngữ kịch! Ngắn gọn nhưng lại mang tính tổng hợp cao, nhịp điệu có phần gấp gáp chóng vánh cùng các dấu chấm than, dấu phẩy và dấu chấm hỏi… như chính cảm xúc của các nhân vật, từ thay đổi này tới sự thay đổi khác, hết bình tĩnh, đến lo lắng, tới hi vọng và cuối cùng lại tuyệt vọng. Cùng với đó là những chú thích, những hành động và những tiếng reo, tiếng thét, những từ sử dụng để diễn tả cái bộ dạng “thở hổn hển, hất hàm, rú lên, khóc, nóng ruột, giậm chân gắt, quỳ xuống, cười ha hả” hay diễn tả được những trạng thái cảm xúc “hi vọng, khinh bỉ, thất vọng”… đều phản ánh một cách vô cùng chân thực khung cảnh náo loạn cùng với xung đột cao trào lúc đó, cũng như sự giằng xé về mặt cảm xúc trong từng nhân vật kịch.
Đoạn trích còn thể hiện được cái tài của tác giả Nguyễn Huy Tưởng khi xây dựng kịch, những lớp kịch ngắn, thay đổi liên tục nhưng vẫn bao quát được toàn bộ diễn biến của câu chuyện, thể hiện được bản chất trong kịch. Ngoài ra, việc đặt nhân vật vào không gian cung cấm với những tên đất và tên người cụ thể ít nhiều có các yếu tố sử sách làm cho vở kịch trở nên hoành tráng, có không khí lịch sử và mang tính chân thực, gợi cảm hứng đến cho người đọc lẫn người xem.
Sổ tay Ngữ Văn tổng hợp các tips học văn hiệu quả giá chỉ bằng một cốc trà sữa. Nhanh tay đặt hàng thôi bạn ơi!!!
3.2 Bài viết tham khảo 2: Nội dung và hình thức nghệ thuật của vở kịch “Sống hay không sống – Đó là vấn đề” (trích Hămlet)
Mẫu tham khảo 1:
Những vở kịch của Sếch-xpia luôn là nguồn tài nguyên vô cùng giá trị để các thế hệ sau khai thác và khám phá. Không chỉ lột tả được bức tranh một cách chân thực của thời đại, ông còn đem tới cho nhân loại vô vàn những thông điệp và giá trị nhân sinh hết sức sâu sắc. Điều đó cũng được thể hiện rất rõ ràng thông qua văn bản "Sống hay không sống - đó là vấn đề", trích trong vở bi - hài kịch "Bi kịch của Hăm-lét, hoàng tử Đan Mạch".
Về nội dung, tác phẩm mang tới rất nhiều thông điệp giá trị và ý nghĩa đối với nhân loại. Theo các nhà nghiên cứu nhận xét, "Sống hay không sống - đó là vấn đề" đã có thể phản ánh được tinh thần của thời đại. Trong xã hội nơi đầy những sự mưu mô, xấu xa bao trùm, vẫn có những con người luôn hướng đến cái lương thiện và tốt đẹp. Ở đó, ta thấy cuộc đấu tranh không hồi kết giữa thiện và ác, giữa lí tưởng sống rất cao cả của con người với thực tại đổ vỡ và tối tăm. Qua đây, tác giả muốn hướng con người đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Đồng thời, đưa ra được câu hỏi mang bản chất về triết học cho loài người: "Sống hay không sống?". Đây là vấn đề đề cập tới mục đích sống của mỗi cá nhân. Để trả lời câu hỏi này, con người cần phải ý thức được thực tại hết sức vô định và bất công. Từ đó suy xét và hình thành nên suy nghĩ: "Hành động hay không hành động?". Tất cả đều nhằm hướng đến một cuộc sống tốt đẹp, công bằng và hạnh phúc hơn cho nhân loại.
Về nghệ thuật, đầu tiên phải kể đến nghệ thuật xây dựng nhân vật hết sức tài hoa của Sếch-xpia. Đó là Hăm-lét- người suy nghĩ bằng cả trái tim lẫn trí óc, dám lên tiếng hoài nghi về cả xã hội; là tên vua Clô-đi-út vô cùng nham hiểm, được ngụy tạo bởi những lời nói đường mật; tên Pô-lô-ni-út giả dối và độc đoán hay nàng Ô-phê-li-a tuy thủy chung nhưng sợ lễ giáo và cường quyền;... Tất cả đã tạo ra một hệ thống các nhân vật điển hình với những màu sắc rõ ràng và riêng biệt. Ngôn ngữ kịch cũng được Sếch-xpia sử dụng rất điêu luyện. Nhìn vào những cuộc đối thoại ở trong văn bản, ta thấy rất rõ ràng sự biến chuyển linh hoạt: từ đau đớn, tự vấn tới giễu cợt, gay gắt và mỉa mai. Bên cạnh đó, ngôn ngữ độc thoại đặc sắc đã góp phần vô cùng quan trọng thể hiện tư tưởng và góc nhìn của nhân vật cũng như là của tác giả. Không chỉ thế, những xung đột trong kịch cũng được gắn liền với xung đột trong nội tâm nhân vật Hăm-lét. Từ niềm tin mãnh liệt vào con người, Hăm-lét dần chuyển sang trạng thái hoang mang và lo sợ trước thực tại đổ vỡ. Từ ấy, có thái độ hoài nghi và chán nản với nhân sinh. Sau cùng, trải qua biết bao sóng gió, chàng đã nhận thức được thế giới và nảy sinh nghị lực phản kháng.
Như thế, có thể nói rằng tác phẩm "Sống hay không sống - đó là vấn đề" đã thể hiện vô cùng rõ nét tài năng cũng như tầm nhìn mang tầm vĩ mô của đại văn hào Sếch-xpia. Qua đó, để lại cho nhân loại một kiệt tác mà cho đến tận bây giờ vẫn còn nguyên vẹn giá trị.
Mẫu tham khảo 2:
Trong vở kịch "Hamlet" của William Shakespeare, câu hỏi "Sống hay không sống, đó là vấn đề" đã trở thành một đoạn độc thoại vô cùng nổi tiếng và gây xúc động mạnh cho toàn bộ khán giả. Đoạn đối thoại này không chỉ là một sự phân vân giữa sự tồn tại với tự sát, mà còn là một biểu hiện rất sâu sắc của linh cảm trong tâm trạng của nhân vật chính là Hamlet.
Khi xem xét nhân vật Hamlet, chúng ta thường tập trung vào những hành động và quyết định của anh ta. Tuy nhiên, ít được đề cập tới tầm quan trọng của linh cảm, mà đó là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc tạo nên tính bi kịch của nhân vật. Linh cảm không chỉ thể hiện được sự phân vân và đau khổ trong lòng Hamlet, mà còn khiến cho anh trở thành một biểu tượng của sự bi kịch, một biểu tượng mà khán giả luôn luôn đồng cảm và hiểu được. Trong đoạn độc thoại "Sống hay không sống", Hamlet đã đặt ra câu hỏi chính thức về ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng không chỉ đơn giản là câu hỏi, linh cảm của Hamlet còn lồng ghép cả những sự trăn trở và khao khát kiến thức cùng với sự lo lắng về tương lai của mình. Anh ta đặt ra câu hỏi này không chỉ vì chính bản thân mình, mà còn vì nhân loại và tình trạng trên toàn thế giới xung quanh. Điều này làm cho Hamlet trở thành một nhân vật bi kịch hết sức đặc biệt, trở thành tiêu biểu cho chuỗi những nhân vật bi kịch khác trong nhiều tác phẩm của Shakespeare.
Hình thức nghệ thuật của đoạn độc thoại ấy cũng đáng được nhắc tới. Từ ngôn ngữ giàu hình ảnh với phong cách biểu đạt sắc sảo, Shakespeare đã tạo nên một diễn đạt cảm xúc hết sức chân thực và sâu sắc. Câu hỏi "Sống hay không sống" trở thành một câu thách thức hay một lời kêu gọi sự tư duy cùng suy nghĩ sâu xa của khán giả. Điều này giúp tạo ra một sự gắn kết rất mạnh mẽ, khơi gợi một cuộc tranh luận về ý nghĩa trong cuộc sống và giúp chúng ta tự đặt câu hỏi về ý nghĩa cùng như giá trị của sự tồn tại. Anh ta diễn tả những suy nghĩ phân tâm và lẫn lộn trong tâm trí của mình thông qua việc sử dụng các câu chữ chắc nịch, câu hỏi lặp lại cùng với các từ ngữ đối lập như "sống" và "không sống". Điều này tạo ra một hiệu ứng tiếng trong trí tưởng tượng của người đọc cũng như người xem, khiến cho họ có thể cảm nhận được sự căng thẳng và sự đau đớn tinh tế trong tâm trạng của nhân vật Hamlet.
Câu nói cũng phản ánh được sự phân vân và khả năng suy ngẫm rất sâu sắc của Hamlet. Anh ta không đơn giản chấp nhận hay từ chối cuộc sống ấy một cách dễ dàng. Thay vào đó, anh ta khám phá sâu hơn về bản chất của cuộc sống, tìm kiếm ý nghĩa và lý do để có thể tiếp tục sống. Và chính sự phân vân và đau khổ của nhân vật Hamlet cũng là một phần trong tính cách và tâm lý của anh, làm cho anh trở thành một nhân vật bi kịch vô cùng đặc biệt và tiêu biểu.
Đoạn độc thoại "Sống hay không sống" trong vở kịch "Hamlet" là một điểm nhấn hết sức quan trọng trong việc tạo dựng tính bi kịch và linh cảm của nhân vật. Nó không chỉ tạo ra một câu hỏi hết sức trăn trở về ý nghĩa của cuộc sống, mà còn phản ánh được sự phân vân, đau khổ lẫn sự suy ngẫm sâu sắc trong tâm trạng của nhân vật Hamlet. Đây là một trong những yếu tố làm cho Hamlet trở thành một nhân vật bi kịch hết sức độc báo và nổi bật trong tác phẩm của Shakespeare.
PAS VUIHOC – GIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA
Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:
⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+
⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích
⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô
⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi
⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề
⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập
Đăng ký học thử miễn phí ngay!!
Hướng dẫn soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (kịch bản văn học) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bộ phim) sẽ giúp các em hiểu rõ về nghệ thuật và nội dung về tác phẩm mà mình đang quan tâm. Hy vọng rằng, sau khi tham khảo bài soạn này, các em sẽ có thể tự viết được bài nghị luận thật hay và đặc sắc cho mình. Để đọc thêm những bài soạn văn 11 khác thuộc chương trình ngữ văn 11 hoặc những môn học khác, các em hãy cùng nhanh tay truy cập website vuihoc.vn rồi đăng ký khoá học của VUIHOC để có thể tiếp thu được nhiều kiến thức nhất cùng các thầy cô nhé!
>> Mời bạn xem thêm:
- Soạn bài Âm mưu và tình yêu
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 127 ngữ văn 11/1 chân trời sáng tạo
- Soạn bài Chí khí anh hùng