img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Phân tích tác phẩm dọn về làng - ngữ văn 12

Tác giả Minh Châu 14:21 30/11/2023 5,516 Tag Lớp 12

Dọn về làng là một tác phẩm được sáng tác vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp nhằm nhấn mạnh những mất mát, đau thương trong cuộc chiến và niềm vui của nhân dân khi đạt được những chiến thắng hào hùng, vẻ vang. Để người học dễ dàng nắm bắt được những ý chính, VUIHOC đã lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và những bài văn mẫu về phân tích tác phẩm: Dọn về làng.

Phân tích tác phẩm dọn về làng - ngữ văn 12
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Dàn ý phân tích tác phẩm dọn về làng 

1.1 Mở bài 

- Những thông tin cơ bản cần phải nắm được về nhà thơ Nông Quốc Chấn cùng với phong cách sáng tác của ông.
- “Dọn về làng” viết nội dung về quê hương của tác giả vào thời điểm những năm tháng chiến đấu đau thương mà lại anh dũng, đáng tự hào, đồng thời nêu được những ý nghĩa của việc kháng chiến thắng lợi đối với cuộc sống và con người Tây Bắc.

Minh hoạ hình ảnh phân tích tác phẩm: Dọn về làng

1.2 Thân bài

a. Niềm hân hoan khi chiến thắng quân địch đã được thể hiện rõ nét trong 4 dòng thơ đầu "Mẹ!...như củi":

- Kết quả của cuộc kháng chiến được diễn tả dựa trên hình ảnh sống động, đậm lối tư duy và diễn đạt của người dân miền núi, một nét vô cùng chất phác và hồn hậu.

- Tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn sau bao nhiêu gian khổ đã được giải phóng. Với những người dân miền núi thì chiến thắng ấy đã là niềm hạnh phúc khó tả, cuối cùng họ cũng có thể trở lại ngôi làng thân thương của mình để "sửa nhà phát cỏ” và cùng nhau “Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai".

b. Hồi tưởng về quá khứ đau thương mà các anh hùng của nhân dân miền núi đã phải trải qua trong kháng chiến:

- "Mấy năm qua...vắt bám đầy chân": Bằng những nhận biết thực tế, Nông Quốc Chấn đã diễn tả vô cùng chân thực nỗi thống khổ khi phải chạy giặc của đồng bào miền núi, những khó khăn vất vả khi phải băng rừng, lội suối trong cuộc kháng chiến vẫn luôn luôn hằn rõ trong tâm trí.

- "Súng nổ kia...lối bước đi":

+ Sự cướp phá thật tàn nhẫn, điên cuồng của giặc, chúng đã phá lán, cướp quần áo.

+ Hình ảnh những người phụ nữ miền núi vô cùng kiên cường, mạnh mẽ, nhạy bén hiện lên một cách rõ ràng, một mình có thể gánh vác cả gia đình trong suốt quá trình chạy giặc nguy hiểm.

- "Làm sao bây giờ...không biết nói nữa rồi":

+ Sự hi sinh, mất mát đang diễn ra ở ngay trước mắt, khắc ghi vào trong tiềm thức của những người dân nơi đây, từng người cha, người con đang bị lũ giặc bắt đi, họ bị đánh đập tàn nhẫn, nhưng trái tim của họ vẫn thét lên tinh thần lòng yêu nước.

=> Lòng căm thù lũ giặc đã trở thành nguồn động lực, là sức mạnh to lớn để nhân dân miền núi quyết tâm đứng dậy đấu tranh nhằm giải phóng quê hương trở về yên bình.

- "Chúng con còn thơ...ta mới hả":

+ Bi kịch tang thương trong gia đình của người phụ nữ Tày để thể hiện bi kịch của cả một dân tộc.

=> Tất cả những sự vất vả, nỗi gian lao chạy giặc vượt qua núi băng rừng rậm, cùng những hy sinh bằng xương máu đã tích tụ lại trở thành nỗi căm hờn sâu sắc, tất cả nỗi đau ấy khiến đồng bào ta sẽ không còn nhẫn nhịn chịu đựng nữa, phải biến nỗi oán hận đó trở thành sức mạnh để giết chết bọn giặc Tây cướp phá nước ta "Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn”, “Băm xương thịt mày, tao mới hả".

- "Hôm nay Cao-Bắc-Lạng...từng vũng":

+ Khung cảnh hồi sinh, vươn dậy với sức sống tiềm tàng vô cùng mạnh mẽ của người dân và mảnh đất Tây Bắc.

+ Người dân miền núi đã bắt đầu xây dựng lại một cuộc sống mới, sau bao nhiêu đau thương, bao lần vượt qua mưa bom bão đạn, bầu trời Tây Bắc giờ đây đã xanh trở lại, khắp Cao-Bắc-Lạng chỉ còn tiếng cười vang, giòn giã và hân hoan trong niềm vui chiến thắng.

- "Mặt trời lên sáng ...con sẽ về trông mẹ":

+ Hình ảnh mặt trời lên "sáng rõ" chính để tượng trưng cho một khởi đầu mới ngập tràn hy vọng, người con lớn lên dõi theo ánh mặt trời cách mạng mà chiến đấu để bảo vệ được quê hương, cùng với những lời hứa rất chân thành, sâu sắc mang đậm nét văn hoá gắn bó với người dân miền núi: "Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ".

+ Đó là niềm tin mãnh liệt vào một chiến thắng không xa, niềm tin đất nước sẽ hoàn toàn sạch bóng quân thù, nhân dân khắp mọi nơi đều được hưởng cuộc sống ấm no, thái bình,  không còn hình bóng của chết chóc chiến tranh.

1.3 Kết bài

Tổng kết lại toàn bộ nội dung của tác phẩm và nêu lên được cảm xúc cá nhân.

Với dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Dọn về làng của tác giả Nông Quốc Chấn, vui học tin rằng các em có thể dễ dàng ghi nhớ được thông tin và viết được những bài văn hay nhất.

Nếu các em muốn xây dựng lộ trình học ngữ văn tối ưu thì hãy tham gia khóa học PAS THPT cùng các thầy cô của vui học nhé! 

 

2. Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm dọn về làng 

Để đơn giản hoá quá trình làm bài và viết bài thì các em có thể chọn cách học theo sơ đồ tư duy. Mọi ý chính sẽ được thể hiện trong sơ đồ tư duy đó và việc ghi nhớ sẽ trở nên logic và dễ dàng hơn. Dưới đây là một ví dụ về sơ đồ tư duy giúp phân tích tác phẩm: Dọn về làng đơn giản, dễ hiểu và dễ nhớ dành cho các em. 

 

3. Văn mẫu phân tích tác phẩm dọn về làng 

3.1 Phân tích tác phẩm dọn về làng mẫu số 1  

           Nông Quốc Chấn (sinh ngày 18 tháng 11 năm 1923, mất ngày 4 tháng 2 năm 2002) là một nhà văn dân tộc Tày - dân tộc thiểu số, ông là một gương mặt văn hóa tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp trí thức, trưởng thành trong công cuộc kháng chiến. Đóng góp chủ yếu của Nông Quốc Chấn trong nền văn học Việt Nam chính là những tác phẩm thơ, với cảm xúc mộc mạc chân thành, lời thơ toát lên nét riêng biệt trong lối tư duy và diễn đạt của người dân miền núi, hình ảnh thơ lại vô cùng giản dị, tự nhiên và mang đậm phong cách núi rừng Tây Bắc. Năm 1950, chiến dịch biên giới thu đông kết thúc với thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hòa chung niềm vui sướng với bà con nhân dân miền núi nói riêng và nhân dân cả nước nói chung, nhà thơ Nông Quốc Chấn đã chắp bút viết nên tác phẩm ”Dọn về làng” nói về khung cảnh quê hương trong giai đoạn chiến đấu khổ cực mà anh dũng. Đồng thời nêu lên những ý nghĩa của công cuộc kháng chiến thắng lợi đối với cuộc sống cũng như nhân dân Tây Bắc.

          Sau khi kháng chiến biên giới thu đông năm 1950 kết thúc với thắng lợi to lớn thì người dân Tày vui mừng, háo hức để dọn về làng trong niềm hân hoan cùng với niềm vui mừng của cả một dân tộc, điều ấy thể hiện vô cùng rõ ràng trong những câu thơ đầu.

"Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn

Người đông như kiến, súng dày như củi."

Sự phấn khởi, hân hoan khi nhận được tin chiến thắng được thể hiện rõ nét, sinh động trong từng vần thơ, đó là cảm xúc vui sướng của người con khi báo tin cho mẹ "Mẹ! Cao-Lạng hoàn toàn giải phóng". Cuộc kháng chiến thắng lợi cũng được hiện lên qua những hình ảnh vô cùng sống động, lại có nét đặc trưng chất phác và hồn hậu trong lối tư duy của người dân Tây Bắc. Trong suy nghĩ của người dân, bọn "Tây bị chết, bị bắt sống" không thể hiện qua một con số cụ thể nào mà trong cách miêu tả của người con đó thì phải tính bằng "hàng đàn", đông như là những đàn trâu, đàn bò họ vẫn thường chăn thả. Hình ảnh vệ quốc quân tiến đi vào đánh chiếm lại các đồn cũng được mô tả dựa vào các hình ảnh sống động "đông như kiến", vũ trang từng tầng từng lớp như thanh "củi" thân thuộc mà họ vẫn thường vào rừng nhặt về. Cao Bằng, Lạng Sơn đã hoàn toàn được giải phóng, quê hương đã trở lại bình yên, đối với mỗi con người miền núi thì đó chính là hân hoan khó tả, sau bao nhiêu khổ cực họ cũng được trở về với ngôi làng thân yêu để "sửa nhà phát cỏ” và “Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai"; để được sống trong một cuộc sống ấm no, êm đềm để được hưởng niềm vui một cách trọn vẹn trong những dịp quan trọng như ngày Tết, ngày rằm tháng 7. Sau tin báo thắng lợi, Nông Quốc Chấn đã dựa theo dòng hồi tưởng về những tháng ngày kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ trong quá khứ.

"Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi

Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi

Cơn gió bão trên rừng cây đổ

Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa

Ðường đi lại vắt bám đầy chân."

Nỗi khổ cực khi phải chạy giặc của người dân Tây Bắc được Nông Quốc Chấn thể hiện thông qua những hình ảnh thực tế lại sống động, họ chạy giặc vội vàng đến mức chẳng còn quan tâm đến tết nhất, phải vượt đèo lội suối "hết núi lại khe", phải cảm thán rằng "cay đắng đủ mùi". Những ngày trời nắng đường đi dẫu cho có nhiều chông gai cũng chẳng đáng sợ bằng những ngày trời đổ mưa "mịt mù", con người ở giữa thiên nhiên rộng lớn phải chống chọi với đủ loại điều kiện khắc nghiệt từ bão tố, mưa sa đến việc chống chọi với cơn giận dữ của thiên nhiên từ "cơn gió bão trên rừng cây đổ", đến những "cơn sấm sét" xé toang trời làm đôi, lệch đất làm chiếc lán vừa mới dựng lên đã vội đổ. Đôi chân trần thì leo từ núi này sang đồi khác, dẫm lên sỏi đá, mòn cả lối đi, lại gặp cả những loài vắt hút máu, nghĩ đến thôi đã thấy rùng mình. Ai đã gây nên những khốn khổ như vậy, ai đã để đồng bào miền núi phải ra đi từ bỏ làng? Đó chính là nòng súng độc ác của lũ giặc tàn nhẫn và ác ôn.

"Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.

Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,

Nó vơ hết áo quần trong túi

Mẹ địu em chạy tót lên rừng

Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng

Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải

Bà lòa mắt không biết lối bước đi."

Kẻ thủ độc ác, lấy tiếng súng để phá tan những cánh rừng, ngọn núi, phá tan cả giấc mơ của các em, chúng hung hãn như con thú điên dại, không tìm thấy gì thì chúng "đốt đi trơ trụi" từng chiếc lán, cướp đi cả những mảnh quần áo vốn đã cũ mèm, ôi thật ghê tởm sao lũ giặc hèn hạ. Và cũng chính từ sự cướp phá điên cuồng của quân giặc, hình ảnh người phụ nữ Tày hiện lên vô cùng mạnh mẽ, bất khuất, một tay chèo lái được cả một gia đình, đó là vẻ đẹp của sự nhanh nhạy khi "Mẹ địu em chạy tót lên rừng". Bóng lưng gầy guộc của người mẹ trở thành hình tượng trụ cột của cả một gia đình khi phải mở rừng đi trước, lưng thì địu con nhỏ, tay vẫn vẫy con lớn, tay lại dắt theo được cả người "bà lòa mắt không biết lối bước đi", có như vậy mới thấy trong sự khó khăn thì vô vàn sức mạnh của con người có thể được khai phá triệt để. Nhưng liệu cứ như thế thì trốn được trong bao lâu, bóng lưng người mẹ có thể trụ vững được bao nhiêu lần, lúc này đây lòng căm hận lũ giặc khốn khiếp khiến người dân phải khổ cực đã trở thành một nguồn động lực to lớn để nhân dân miền núi quyết tâm đứng dậy để đấu tranh và giải phóng quê hương.

"Làm sao bây giờ: ta phải chống!

Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,

Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây

Súng nổ ngay đì đùng một loạt,

Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất

Cha ơi: cha không biết nói rồi..."

Bởi sự hi sinh đầy mất mát và đau thương đang diễn ra ngay phía trước, khắc sâu vào tâm trí đồng bào nơi đây, từng người cha, người con đang bị lũ giặc bắt đi, họ bị đánh đập tàn bạo, nhưng trái tim của họ vẫn thét lên tinh thần yêu nước, căm ghét lũ giặc khốn khiếp đến cùng cực thông qua câu "Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây". Sự ác độc và điên dại của lũ Tây đã khiến chúng sẵn sàng ra tay sát hại những đồng bào Tây Bắc, hình ảnh "Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất/Cha ơi: cha không biết nói rồi..." là hình ảnh vô cùng đau thương và hết đỗi ám ảnh luôn tồn tại trong tâm trí những người ở lại, đặc biệt nó càng đau xót hơn khi những khung cảnh hãi hùng ấy lại bị lọt vào đôi mắt của trẻ thơ, còn gì dã man và tàn bạo hơn khi đứa trẻ chỉ mới nhận thức được việc "cha không biết nói rồi".

"Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?

Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!

Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.

Sợ Tây nghe, mẹ dỗ "nín", con im.

Lán anh em rải rác không biết nơi tìm

Không ván, không người đưa cha đi cất.

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,

Con cởi áo liệm thân cho bố;

Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ

Máu đầy tay, trên mặt nước tràn...

Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn

Băm xương thịt mày, tao mới hả."

Đau thương lan rộng và để lại một thảm kịch xót xa là kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh, người vợ gầy guộc đau đớn tột cùng vì mất chồng, bên cạnh đó lũ con ngây dại phải chịu cảnh mồ côi cha, rồi mai sau gia đình sẽ do ai gánh vác. Nỗi đau đớn càng được thể hiện rõ hơn trước khung cảnh đám tang được tổ chức đơn sơ, không có tấm ván đóng hòm, tấm khăn phủ mặt cũng chính từ chiếc khăn đội đầu của người vợ suốt ngày tháng qua, áo liệm cũng chính là chiếc áo con mặc đến cũ mèm. Và "Mẹ và con đưa cha đi nằm một chỗ", người nằm xuống lòng đất lạnh lẽo, người ở lại bàn tay vẫn còn dính máu đỏ, đôi mắt trở nên nhòe đi, khuôn mặt toàn nước mắt, còn nỗi đau nào hơn nỗi đau như thế nữa? Tất cả những nỗi thống khổ, sự gian lao khi chạy giặc cùng những hi sinh vĩ đại đã tụ lại thành nỗi oán hận sâu sắc, đến mức này rồi thì nhân dân ta cũng không cần phải nhẫn nhịn chịu đựng thêm nữa, phải biến nỗi oán hận đó thành động lực và sức mạnh để giết hết lũ giặc Tây xâm lược "Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn/Băm xương thịt mày, tao mới hả". Và với tinh thần hào hùng, lòng quyết tâm chống giặc của đồng bào ta, núi rừng Tây Bắc đã dọn sạch quân thù, những người nằm xuống cũng có thể yên tâm nhắm mắt, còn người ở lại thì có thể trở về với ngôi làng thân yêu, trở lại với cuộc sống bình an.

"Hôm nay Cao - Bắc - Lạng cười vang

Dọn láng, rời rừng, người xuống làng

Người nói cỏ lay trong ruộng rậm

Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.

Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.

Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.

Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.

Mặc gà gáy chó sủa không lo,

Ngày hai bữa rau ta có muối.

Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu

Có bắp xay độn gạo no lâu,

Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,

Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con

Quả trên cành không lo tự chín tự rụng,

Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng"

Có thể nói rằng 15 câu thơ cuối cùng chính là cảnh hồi sinh, vươn dậy vô cùng mạnh mẽ với sức sống tiềm tàng của những con người thuộc mảnh đất Tây Bắc. Đồng bào miền núi bắt đầu xây dựng lại một cuộc sống mới, sau những mất mát đau thương, bao lần dãi mưa bom bão đạn, bầu trời vùng Tây Bắc nay đã nên xanh mát, khắp Cao-Bắc-Lạng chỉ còn những tiếng cười giòn tan, niềm vui mừng hãnh diện khi chiến thắng. Họ không cần phải chịu cảnh ngày ngày chuyển lán, không cần phải trèo đèo lội suối trong rừng rậm với bao nguy hiểm rình rập, người lớn thì ngày ngày lên nương phát rẫy để chuẩn bị cho một mùa vụ gieo trồng mới, trẻ con ở nhà thì cười đùa vô tư, không còn giật mình bởi tiếng súng nổ quanh đây như trước. Trong đoạn thơ này, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh sinh hoạt của người dân tộc Tày thật đơn sơ và giản dị, nhưng lại hạnh phúc một cách tinh tế giống như những ngày chưa xuất hiện giặc Pháp.

"Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,

Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta.

Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ."

Hình ảnh mặt trời cũng trở nên "sáng rõ" tượng trưng cho một khởi đầu mới với đầy rẫy những hy vọng, người con lớn lên dõi theo ánh mặt trời của cách mạng mà sẵn sàng tham gia chiến trường, chiến đấu hết mình để bảo vệ quê hương, cùng lời hứa vô cùng chân thành, sâu sắc mang đậm nét đặc trưng của đồng bào miền núi: "Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ". Đó là niềm tin về một chiến thắng lừng lẫy không còn cách xa, niềm tin về một một đất yên bình sạch bóng kẻ thù, nhân dân khắp mọi nơi đều được sống một cuộc sống vui vẻ, thái bình, sẽ không khung cảnh chết chóc của chiến tranh, sẽ không còn những giọt nước từ biệt nào phải rơi xuống nữa, rồi con sẽ lại được về với mẹ và sống cuộc sống hạnh phúc thật lâu dài.

“Dọn về làng” là một tác phẩm hay, mang đến cho người đọc nhiều giá trị hiện thực sâu sắc nhằm tái hiện lại quá khứ khổ cực đồng thời thể hiện niềm vui mừng khôn xiết trước tin báo quê hương hoàn toàn được giải phóng, núi rừng Tây Bắc giờ đây đã trở lại bình yên, không có tiếng súng của giặc, đồng thời ca ngợi sức sống mãnh liệt, sự hồi sinh, vực dậy một cách nhanh chóng của các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc và đồng bào nơi đây sau quá trình chiến đấu anh dũng.

Đăng ký ngay để được thầy cô xây dựng lộ trình ôn thi Văn đạt 9+ THPT Quốc Gia

 

3.2 Phân tích tác phẩm dọn về làng mẫu số 2 

Nông Quốc Chấn là một trong những nhà văn hóa tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp trí thức là người dân tộc thiểu số, ông trưởng thành trong công cuộc cách mạng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đóng góp nổi bật của ông trong lĩnh vực sáng tác văn học là những tác phẩm thơ. Thơ Nông Quốc Chấn mang một nét đặc sắc vừa chất phác, chân thành lại vừa mang một vẻ riêng biệt trong tư tưởng của người con miền núi: tự nhiên, giản dị nhưng lại giàu hình ảnh. Với những đóng góp vô cùng to lớn vào nền văn học của nước nhà, năm 2000, ông đã được vinh dự nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. “Dọn về làng” là một trong những sáng tác rất tiêu biểu của tác giả Nông Quốc Chấn viết về chính quê hương của mình trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp để lại nhiều đau thương nhưng chiến thắng lại rất anh dũng.

Bài thơ thấm nhuần tâm tư và tình yêu nồng nàn của tác giả đối với quê hương, với dân làng và đất nước. Ông trân quý và đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn, vất vả, những nỗi đau đớn vì mất mát người thân mà nhân dân ta phải gánh chịu, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi căm hờn trước sự độc ác của lũ giặc hung hãn. Và rồi, cuối cùng, chiến thắng lại trở về tay người dân, mọi người trước kia phải sơ tán nay đã được trở lại làng và bắt đầu lại một cuộc sống bình yên như đã có thuở xưa.

"Mẹ ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn

Người đông như kiến, súng đầy như củi

Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ

Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai" 

Không còn gì đau thương hơn chiến tranh, và cũng không có gì sung sướng bằng khi cuộc chiến tranh chống quân địch giành thắng lợi. Vượt qua bao nhiêu gian nan vất vả, bao mồ hôi xương máu đã đổ xuống, nhân dân hai vùng Cao – Lạng đã được giải phóng hoàn toàn. Hình ảnh đầu tiên tác giả nhắc đến trong thơ là "Mẹ !". Sau dấu chấm than là cảm xúc thể hiện niềm vui sướng khôn xiết khi những ngày tháng đấu tranh giành hoà bình đã chính  thức chấm dứt. Tây đã bị bắt, các đồn đều được chiếm lại. Nhân dân nơi này đã lập được một chiến công vô cùng to lớn, mang lại niềm hạnh phúc và hãnh diện cho chính mình, giải phóng bản thân khỏi sự áp bức nô lệ suốt bấy lâu nay:

"Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi

Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi

Cơn gió bão trên rừng cây đổ

Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa

Ðường đi lại vắt bám đầy chân.

Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.

Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,

Nó vơ hết áo quần trong túi

Mẹ địu em chạy tót lên rừng

Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng

Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải

Bà loà mắt không biết lối bước đi.

Làm sao bây giờ: ta phải chống!

Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,

Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây

Súng nổ ngay đì đùng một loạt,

Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất

Cha ơi: cha không biết nói rồi…

Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?

Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!

Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.

Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín”, con im.

Lán anh em rải rác không biết nơi tìm

Không ván, không người đưa cha đi cất.

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,

Con cởi áo liệm thân cho bố;

Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ

Máu đầy tay, trên mặt nước tràn…

Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn

Băm xương thịt mày, tao mới hả." 

Giặc đến phá nát cuộc sống vốn yên bình của người dân, làng xóm. Những dịp tết, rằm tháng giêng, rằm tháng bảy nhẽ ra sẽ được tổ chức với không khí nhộn nhịp, náo nức nhưng khi giặc đến, chúng càn quét không còn thứ gì từ cái quần ở trong túi, chúng cũng đốt sạch lán chỉ còn lại trơ trụi bãi đất trống không, chúng còn ra tay sát hại những người dân lành. Không có một từ ngữ nào có thể diễn tả hết những tội ác mà thực dân Pháp đã gây nên. Hình ảnh người mẹ phải địu con nhỏ chạy tót lên rừng đã lấy đi không biết bao nhiêu nước mắt từ bạn đọc.

Trẻ thơ chúng đều vô tội mà lại phải vướng vào công cuộc trốn chạy đầy gian khổ và nguy hiểm tiềm ẩn. Tác giả không nhắc đến hình ảnh những đứa trẻ khát sữa đến chết giữa rừng, hay những người mẹ bị rơi xuống vực sâu bỏ lại đứa con bé nhỏ thơ ngây bơ vơ một mình tội nghiệp. Có những bà lão mù lòa cũng phải tự lần đường mà bỏ chạy. Bởi bọn giặc điên cuồng kia sẽ không tha cho bất kỳ ai. Chúng sẽ bắt tất cả và hành hạ mọi người đến chết.

Dân làng náo loạn được ví như bầy chim vỡ tổ, không biết phải chạy về đâu. Làm thế nào bây giờ? Ta phải chống lại chúng. Đúng vậy, bằng mọi giá dân ta phải chống cự trước sự tàn khốc của kẻ thù. Chúng đã gây ra bao nhiêu tội ác cho dân lành. Chúng bắt cha con phải đi, chúng nó đánh đập dã man. Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây, súng liền nổ ngay cùng một loạt, cha ngã xuống nằm trên mặt đất… Ôi ! Còn nỗi đau nào đau hơn như thế nữa. Một đàn con nhỏ thơ ngây giờ ai nuôi dạy?

Không một ai chống gậy vào lúc bà cụ qua đời ! Cha là một trụ cột vững chắc nhất trong gia đình nhưng giờ cha đã ngã xuống thật rồi. Mẹ ngồi khóc vì nỗi đau mất người thân, con cúi đầu cũng khóc theo. Chỉ có nỗi đau đớn và những dòng nước mắt tiễn đưa người cha ra đi. Cha chiến đấu vì sự an toàn của người dân và cho đàn con thơ mà chúng nỡ lòng nào bắt giết không một chút tiếc thương. Cảnh nghèo khổ, cuối đời người cha cũng chẳng được trọn vẹn và đủ đầy.

"Không ván, không người đưa cha đi chôn cất

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng

Con cởi áo liệm thân cho bố

Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân rừng

Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…"

Chiếc khăn ngày đó cha tặng mẹ làm vật kỷ niệm đánh dấu cho tình yêu, nay mẹ dùng chính nó để che mặt cha trong phút giây chia ly từ biệt. Từ nay mẹ phải nỗ lực một mình che chở cho đàn con ngây dại và người mẹ già đã yếu và chậm chạp. Cha đi rồi, đàn con mất đi chỗ dựa vững chắc, mẹ phải đứng lên gồng gánh thay cha tất cả mọi việc. Nén lại nỗi đau, mẹ ôm lấy cha đến tận chân rừng, gửi lại cơ thể cha cho thần rừng và thần núi, hẹn kiếp sau cả nhà ta lại sum vầy vui vẻ.

Ôi! Có biết bao người cha đã ngã xuống như thể bởi tiếng súng hung bạo của quân giặc. Bao nhiêu người vợ phải chịu nỗi đau nhìn chồng mình nằm xuống bất động? Bao nhiêu ánh mắt trẻ thơ vô tội phải gào khóc gọi tên cha mà không được hồi đáp? Chúng giết cha và cũng giết chết đi tình mẫu tử. Nỗi oán hận này, tao phải băm xương thịt mày ra, tao mới hả dạ! Và chính nhờ tinh thần quyết liệt ấy, nhân dân miền Cao – Lạng đã dành được một thắng lợi vô cùng vẻ vang.

"Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang

Dọn lán, rời rừng, người xuống làng

Người nói cỏ lay trong ruộng rậm

Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.

Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.

Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.

Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.

Mặc gà gáy chó sủa không lo,

Ngày hai bữa rau ta có muối.

Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu

Có bắp xay độn gạo no lâu,

Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,

Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con

Quả trên cành không lo tự chín tự rụng,

Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng.

Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng,

Ra đường xe, hát nói ung dung

Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước

Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai,

Chân đi có giày không sợ nẻ

Trên đầu có mũ che nắng mưa."

Sau công cuộc chiến tranh, gia đình không còn vẹn nguyên nhưng từ nay cũng không còn bị mất thêm bất cứ ai nữa. Ai nấy đều hào hứng bắt tay vào công cuộc xây dựng lại cuộc sống mới sau bao tháng ngày quên đi những dịp lễ quan trọng như rằm tháng giêng, rằm tháng bảy. Người lớn thì hăng say trong công việc, trẻ nhỏ thì ríu rít tiếng cười gây tiếng vang lên cả một vùng núi rừng thân thương và hùng vĩ. Sau chiến thắng, các con cũng trở nên cứng cáp và trưởng thành hơn, họ quyết định đi theo tiếng gọi của Tổ quốc mà lên đường:

"Mặt trời lên ! Sáng rõ rồi mẹ ạ !

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà

Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta

Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ."

Đứa con thơ ngây ngày nào nay cũng nguyện lòng cầm súng đánh giặc, trả lại bình an cho gia đình, cho người dân. Hình ảnh mặt trời dường như đã loại bỏ đi những hình ảnh đau thương do quân địch gây nên. Ở chân núi kia, người cha có thể yên tâm và mỉm cười hạnh phúc vì con mình đã trở nên trưởng thành, đã biết đi theo tiếng gọi đúng đắn của Cách mạng, con quyết tâm lấy lại công bằng cho cha và cho những anh hùng đã ngã xuống ngày hôm ấy.

Xuyên suốt tác phẩm, Nông Quốc Chấn đã bộc lộ tình yêu đối với quê hương, đất nước sâu sắc thông qua những hình ảnh vô cùng mộc mạc và đậm chất nhân dân miền núi, giọng thơ thể hiện rõ vẻ sôi nổi, hào hứng và vui tươi khi hòa bình được lập lại. Đồng thời ông cũng vạch trần tội ác của bọn thực dân Pháp ngang tàn đã giết chết bao người dân vô tội khiến gia đình họ phải li tán đau thương.

Bài thơ " Dọn về làng" là một trong những minh chứng về lịch sử của nước ta nói chung và của nhân dân Cao – Bắc – Lạng nói riêng, đó chính là lời ngợi ca về tinh thần sẵn sàng chiến đấu của nhân dân trong bất kỳ hoàn cảnh dù có vất vả, khó khăn và thiếu thốn đến đâu. Thế hệ trẻ ngày nay hãy quyết tâm học hành thật giỏi, rèn luyện đạo đức sao cho tốt để trở thành những chiến sĩ giỏi trong thời bình, xây dựng một đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.

Xây dựng lộ trình học và ôn tập Ngữ văn 12 cùng khóa học " cá nhân hóa" của vui học, đăng ký để được học thử free bạn nhé! 

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

Tác phẩm “Dọn về làng” là một kiệt tác văn học trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tác giả đã khéo léo đưa những biện pháp nghệ thuật vào bài thơ để nói lên sự đau thương, khổ cực cùng niềm vui mừng khôn xiết khi đất nước chiến thắng anh dũng. Việc phân tích Dọn về làng sẽ giúp các em hiểu hơn về nghệ thuật và nội dung của tác phẩm này. Các em có thể tham khảo các bài soạn văn 12 để học thêm những kiến thức hay về ngữ văn, chuẩn bị hàng trang cho bài học trên lớp trên website vuihoc.vn  nhé!

>> Tham khảo thêm: 


 

Banner afterpost tag lớp 12
| đánh giá
Hotline: 0987810990