img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Phân tích tác phẩm tiếng hát con tàu - Ngữ văn 12

Tác giả Nhã Lân 14:25 30/11/2023 19,688 Tag Lớp 12

Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên là một tác phẩm hay và đặc sắc trong chương trình ngữ văn 12. Các em hãy cùng VUIHOC tham khảo bài dàn ý và phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên để thấy được niềm vui sướng, hạnh phúc, tấm lòng gắn bó với đồng bào, quê hương đất nước trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới của nhà thơ.

Phân tích tác phẩm tiếng hát con tàu - Ngữ văn 12
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Dàn ý phân tích tác phẩm tiếng hát con tàu

A. Mở bài tiếng hát con tàu

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Chế Lan Viên và khái quát về tác phẩm Tiếng hát con tàu:

Chế Lan Viên không chỉ là một nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông còn hăng hái tham gia vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để từ đó hóa thân trong cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác để hòa hợp với nhân dân, đất nước.

“Tiếng hát con tàu” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Chế Lan Viên, thể hiện khát vọng của một tâm hồn cố gắng thoát khỏi cái tôi nhỏ bé để đến với cái ta rộng lớn. Đó là cái khát vọng về một cuộc sống sôi động bằng nỗi nhớ, lòng biết ơn và tình yêu sâu sắc của nhà thơ đối với Tây Bắc – mảnh đất nặng nghĩa nặng tình.

B. Thân bài tiếng hát con tàu

a) Khái quát chung về tác phẩm – Ý nghĩa của lời đề từ.

 Hoàn cảnh sáng tác: “Tiếng hát con tàu” được viết nhân dịp cuộc vận động nhân dân, đồng bào miền xuôi lên miền núi Tây Bắc khai hoang để xây dựng kinh tế trong những năm 1958 – 1960 , bài thơ được in trong tập  “Ánh sáng và phù sa” .

Ý nghĩa của lời đề từ tác phẩm: tác giả thể hiện tư tưởng chủ đề bài thơ và tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc với nhân dân, với đất nước qua câu hỏi tu từ: “ Tây Bắc ư? Có gì riêng Tây Bắc”. Nó chứa đựng nỗi băn khoăn, trăn trở trong tâm trạng của nhà thơ nói riêng và của tầng lớp văn nghệ sĩ nói chung trong thời điểm các cuộc kháng chiến và cách mạng.

Con tàu và Tây Bắc: đều là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng bởi tại thời điểm tác phẩm ra đời chưa có tuyến đường sắt lên Tây Bắc. Hình ảnh con tàu là biểu tượng cho niềm khát vọng lên đường trở về với nhân dân và hòa nhập vào cuộc sống lớn lao của đất nước. Còn hình ảnh Tây Bắc nhằm hướng đến cuộc sống rộng lớn và những miền đất xa xôi còn nhiều khó khăn, thiếu thốn của Tổ quốc.

⇒ Nhà thơ hóa thân mình thành con tàu, đây là cuộc hóa thân kì diệu đã thể hiện được sự gắn bó máu thịt giữa thi nhân với đất nước, với cuộc đời.

b) Phân tích chi tiết

Luận điểm 1: (Hai khổ thơ đầu): sự trăn trở, lời giục giã và vẫy gọi của Tổ quốc với những câu hỏi ngày càng thôi thúc.

Hình ảnh con tàu không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng, nó còn là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho ước mơ, niềm khao khát vượt ra được khỏi cuộc sống chật hẹp quẩn quanh để bước đến một cuộc sống rộng lớn hơn của nhân vật trữ tình. → Chế Lan Viên đã khéo léo khi ví tâm hồn mình như một con tàu đang chạy hết tốc lực về với nhân dân, với quê hương đất nước.

Tây Bắc: không chỉ đơn giản là một tên gọi chỉ địa danh của một vùng đất xa xôi của Tổ quốc mà nó còn là một biểu tượng cuộc sống lớn lao của nhân dân và đất nước. 

Vùng đất Tây Bắc chính là cội nguồn những cảm hứng của hồn thơ và sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy lời giục giã và vẫy gọi về với Tây Bắc chính là lời nhắc về với lòng mình, với những tình cảm chân thành, tình nghĩa gắn bó sâu nặng với nhân dân và quê hương đất nước.

=> Hai khổ thơ đầu cho thấy nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên với chất suy tưởng triết lí rất thể, rất thực do gắn bó với thực tế cuộc sống.

Luận điểm 2: (Chín khổ thơ tiếp): thể hiện một mạch ngầm của niềm hạnh phúc và sự khao khát về với quê hương, đất nước; gợi nhớ lại những kỉ niệm nghĩa tình sâu nặng trong khoảng thời gian kháng chiến.

Từ khung cảnh thiên nhiên đến con người Tây Bắc nay đều đã đổi thay.

Được về với Tây Bắc là chính là về vùng đất thân thương trong tâm hồn mình. Đây là một cuộc hành trình tìm về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc thân yêu.

Những hồi ức về kỉ niệm với nhân dân, đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc được tác giả nhắc đến qua hình ảnh của những con người cụ thể như : người anh du kích, thằng em liên lạc, cô gái Tây bắc, mế ….

Tình yêu thương chân thành cùng sự cưu mang, đùm bọc của người dân Tây Bắc như đã tiếp thêm một luồng sức mạnh cho anh em chiến sĩ, cho nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính điều đó đã để lại những kỉ niệm gắn bó sâu sắc không thể nào phai nhòa.

Thể hiện rõ nét niềm khao khát mãnh liệt và hạnh phúc vô bờ của Chế LAn Viên khi được trở về với nhân dân, với quê hương.

Từ những kỉ niệm ân tình khó quên với đồng bào vùng cao Tây Bắc đó mà tác giả đã nâng lên thành những suy tư, những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lí được rút ra ngay từ chính trải nghiệm của mình.

Tình yêu đã biến vùng đất xa xôi, lạ lẫm trở thành nơi thân thương, gần gũi như quê hương thứ 2 của ta, hoá thành máu thịt tâm hồn ta.

Khi nhắc đến tình yêu và nỗi nhớ, tác giả không ngại ngần đã diễn tả thật hóm hỉnh mối quan hệ gắn bó sâu sắc, bền chặt giữa những con người đang yêu qua những hình ảnh rực rỡ mang đầy màu sắc và đậm phong vị vùng núi Tây Bắc.

Những nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm: Phép nhân hóa, ẩn dụ được Chế Lan Viên sử dụng khéo léo mang tính đa nghĩa. Nhịp điệu thơ được biến đổi một cách linh hoạt, lúc sôi nổi lúc lại da diết, lắng sâu.

Luận điểm 3: Bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đường sôi nổi tràn đầy sự tin tưởng và say mê.

Tiếng vẫy gọi của đất nước, của nhân dân dường như là sự hối thúc mãnh liệt và mạnh mẽ: “Đất nước gọi hay là lòng ta gọi”. Đó chính là lời giục giã của lòng mình nên, biến thành nỗi niềm khát khao sôi nổi và cháy bỏng.

Những lời tự cổ vũ, động viên và khẳng định sự quyết tâm lên đường không thể chần chừ.

 m hưởng lôi cuốn trùng điệp của câu thơ thể hiện sự say mê, niềm tin tưởng của nhà thơ khi trở về với nhân dân, với Tổ quốc “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng, tiếng hát / Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.”

Bài học triết lí nhân sinh và quan điểm sáng tác nghệ thuật được tác giả thể hiện trong những khổ thơ cuối:

+ Hiện thực cuộc sống chính là mạch nguồn vô tận cho cảm hứng sáng tác của thi nhân. Văn chương luôn song hành và không thể tách rời hiện thực.

+ Hiện thực là cơ sở để phát sinh cảm hứng trữ tình cách mạng…

Đăng ký ngay để được để được các thầy cô ôn tập và xây dựng lộ trình ôn thi tốt nghiệp THPT sớm ngay từ bây giờ

 

C. Kết bài tiếng hát con tàu

Khái quát lại nội dung và nêu lên cảm nghĩ, nhận xét chung về bài thơ

Có thể nói thơ Chế Lan Viên không chỉ giàu chất trí tuệ mà còn đậm đà tính trữ tình. Phong cách nghệ thuật của ông là trữ tình cách mạng nổi tiếng trong thơ ca Việt Nam hiện đại.

 

2. Sơ đồ tư duy tiếng hát con tàu

Sơ đồ tư duy tiếng hát con tàu số 1

Sơ đồ tư duy tiếng hát con tàu số 2

 

3. Bài văn mẫu phân tích bài thơ tiếng hát con tàu

Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám với tập thơ “Điêu tàn”. Thơ ông không chỉ mang đậm vẻ đẹp trí tuệ mà còn giàu suy tư triết lý với những hình ảnh thơ phong phú, đa dạng và đầy sức sáng tạo. Khi gia nhập cách mạng rồi đi kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên gần như im hơi lặng tiếng. Mãi khi hòa bình lập lại, ông mới có thơ hay hay. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” là một trong những tác phẩm nổi bật của Chế Lan Viên đáp lại lời kêu gọi của Tổ quốc đi khai hoang Tây Bắc.

“Tiếng hát con tàu” được tác giả lấy cảm hứng từ một sự kiện kinh tế - chính trị có ý nghĩa vô cùng lớn lao, đó là cuộc vận động nhân dân đồng bào miền xuôi lên khai hoang để xây dựng kinh tế nơi miền núi Tây Bắc, đồng thời tập trung thể hiện tư tưởng chủ đạo là cổ vũ động viên thanh niên lên đường xây dựng Tổ quốc. Bài thơ là sự kết tinh xuất sắc giữa nghệ thuật và tư tưởng của Chế Lan Viên trong sự nghiệp thơ ca cách mạng của ông.

Những câu thơ trong lời đề từ mở đầu bài thơ bộc lộ nỗi niềm trăn trở của nhà thơ trước một nhiệm vụ trọng đại của đất nước cùng sự thổn thức, lay động lòng khán giả đã thể hiện được tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm:

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hoá những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”

Lời đề từ được đặt ra rất độc đáo và tài hoa. Cấu trúc vần thơ dưới hình thức hỏi đáp vang lên thật nhẹ nhàng “Tây Bắc ư?” chứa đựng nỗi trăn trở, băn khoăn và sự nhận thức của tâm hồn nhà thơ trước tình cảnh đất nước lâm nguy. Câu thơ đầu tiên thể hiện rõ tình cảm đẹp đẽ và rộng lớn: không chỉ yêu riêng Tây Bắc mà Chế Lan Viên còn hướng tâm hồn mình đến mọi miền của Tổ quốc với tất cả tình yêu thương sâu đậm.  Hai câu thơ sau đã chỉ rõ nguồn gốc của tình cảm cao đẹp đó. Điều kiện chủ quan là "Khi lòng ta đã hóa những con tàu", "ta" ở đây đã sống với khát vọng muốn đi tới mọi miền trên đất nước thân yêu để phục vụ và hiến dâng. Điều kiện khách quan "Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát" là hiện thực xã hội, là không khí của thời đại. Cuối cùng là hệ quả tất yếu mà hai điều kiện trên đã đưa tới: "Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?", câu hỏi tu từ như vang lên sự kiêu hãnh khi biểu lộ tâm hồn mình đã hòa nhập, đã gắn bó, và mến yêu vùng đất Tây Bắc. Hai khổ thơ mở đầu mở ra những lời thơ như vẫy gọi, thúc giục. Nó rộn rã hơn với những ngôn từ thật tha thiết, những câu hỏi dồn dập xoáy sâu trong lòng tác giả nói riêng và thế hệ văn nghệ sĩ nói chung trong thời kì kháng chiến.

“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?

Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội

Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi

Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng

Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp

Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?

Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép

Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”

Ta bắt gặp nhân vật trữ tình đang tự phân thân để đối thoại với chính mình bằng hàng loạt câu hỏi dồn dập xoáy sâu để bộc lộ khát vọng lên đường. Hình ảnh ẩn dụ “con tàu” mang ý nghĩa biểu tượng cho sự khát vọng và niềm hoài bão to lớn đang thôi thúc trong lòng nhân dân, đồng bào Việt Nam ta khi ấy. Tiếng con tàu cao vút lên như một lời kêu gọi mạnh mẽ, nồng nhiệt. Vẫn là hình ảnh con tàu “Tàu đói những vành trăng” với biện pháp tu từ nhân hóa thật biểu cảm và sinh động. Hình ảnh thiên nhiên “vành trăng” rất thơ mộng và trữ tình cũng một biểu tượng cho ánh sáng, niềm tin và hy vọng về một chiến thắng vẻ vang trong tương lai không xa. Tây Bắc không chỉ đơn giản là một địa danh xa xôi, hiểm trở của đất nước, nó còn là một hình ảnh biểu trưng cho đất nước. Tây Bắc chính là cội nguồn cảm hứng tạo ra linh hồn của bài thơ, của sự sáng tạo nghệ thuật dạt dào. Nghệ thuật đối lập tương phản trong câu “Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp” đã gợi sự trăn trở, day dứt trong lòng mọi người. Ta được sống dưới sự che chở của thiên nhiên và sự bao bọc của Tổ quốc nhưng có khi nào ta giật mình nhìn lại và hỏi bản thân đã giúp ích được gì cho quê hương đất nước hay ta chỉ biết sống một cuộc đời vô nghĩa “lòng đóng khép” với tình hình đang căng thẳng ngoài kia.

Niềm vui sướng, hạnh phúc trào dâng khi trở về với vòng tay quê hương đất nước được Chế Lan Viên tái hiện một cách chân thành, giản dị mộc mạc trong chín câu thơ tiếp theo. Từ đó gợi lại bao kỷ niệm tươi đẹp, gắn bó thời kháng chiến:

“Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc

Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng

Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất

Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân

……..

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương.”

Khung cảnh và con người Tây Bắc nay đã đổi thay. Dường như mười năm kháng chiến đi qua “như ngọn lửa” vẫn còn đang rạo rực và bùng cháy trong lòng tác giả. Có lẽ ngay lúc này “Cho con về gặp lại mẹ yêu thương”, tâm hồn nhà thơ cần nghỉ ngơi và an ủi bởi bàn tay gia đình để có thể nguôi ngoai nỗi nhớ thương chất chứa trong lòng bao năm. “Mẹ” trong câu thơ này không chỉ là người mang nặng đẻ đau, mà còn có thể hiểu là mẹ thiên nhiên, mẹ Tổ quốc yêu thương. Bao nhiêu kỷ niệm gắn bó với vùng đất Tây Bắc vẫn còn in đậm trong lòng Chế Lan Viên qua hình ảnh “người anh du kích”, “thằng em liên lạc”, người mẹ tóc bạc, “bản sương giăng”, hay cả “đèo mây phủ”. Tất cả những hình ảnh được tác giả nhắc đến thật cụ thể, giàu liên tưởng sâu sắc. Tình yêu thương sâu đậm cùng sự che chở, đùm bọc của người dân nơi đây như tiếp thêm sức mạnh cho những người lính, người chiến sĩ trong công cuộc kháng chiến để xây dựng bảo vệ Tổ quốc.

Bằng sự nhạy cảm của mình, Chế Lan Viên đã khám phá ra một quy luật đặc biệt trong suy nghĩ con người: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi đi đất bỗng hoá tâm hồn”. Khi bắt đầu đặt chân đến vùng đất mới, mọi thứ đối với ta hoàn toàn xa lạ, đất chỉ đơn giản là nơi ta sinh sống và tồn tại. Thời gian thấm thoát thoi đưa, mảnh đất ấy dần trở nên thân thuộc hơn, từng dáng vẻ con người hay cả từng cái cây ngọn cỏ đều in sâu trong tâm trí ta sâu sắc và nó trở thành một phần trong mảnh ghép “tâm hồn” của những con người xa quê. Không phải tự nhiên mà có sự chuyển hoá lạ kỳ ấy, nó được xuất phát từ tình thương yêu, sự gắn bó đoàn kết và sự đồng cảm trong tâm hồn, nó biến vùng đất từ lạ lẫm trở thành quê hương thứ hai của tất cả mọi người.

Tiếng gọi của Tổ quốc lại vang lên mạnh mẽ  “Đất nước gọi hay lòng ta gọi?”, người chiến sĩ lên đường ra chiến trường mà không cần đắn đo suy nghĩ, mang theo gánh nặng trọng trách trên vai. Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên không chỉ là tình cảm lứa đôi đơn lẻ mà nó còn hoà mình cùng tình yêu đồng bào, quê hương đất nước. Tình yêu ta đã hoá vùng đất xa lạ trở thành quen thuộc, gần gũi như quê hương thứ hai máu thịt, tâm hồn. Dưới ngòi bút tài hoa đậm chất nghệ thuật lãng mạn của Chế Lan Viên tình yêu được diễn tả với sự hóm hỉnh sâu lắng, sự khăng khít, thuỷ chung với những hình ảnh rực rỡ sắc màu, mang đậm dư vị của vùng rừng núi Tây Bắc. 

“Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên là một tác phẩm đặc sắc mang lại giá trị to lớn cho nền thi ca Việt Nam. Bài thơ là vừa là nỗi niềm trăn trở, tha thiết của tác giả trong công cuộc xây dựng  quê hương, Tổ quốc,  vừa là nhận thức riêng cho mình một con đường đi tới để được hoà mình vào cuộc sống mới để được sống trong những cảm xúc chân thành.

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết bài dàn ý và phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên thuộc chương trình Ngữ văn 12. Hi vọng rằng có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức tác phẩm tuyệt vời này đem lại. Để tham khảo nhiều hơn các bài soạn văn 12 hay các kiến thức cần thiết phục vụ quá trình ôn thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ Văn hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

 

Các bài viết tham khảo thêm:

Phân tích đất nước

Soạn bài viết bài văn nghị luận số 3: Nghị luận văn học

Soạn bài Tiếng hát con tàu 

Banner afterpost tag lớp 12
| đánh giá
Hotline: 0987810990