img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Phân tích truyện ngắn “Thuốc” của nhà văn Lỗ Tấn

Tác giả Minh Châu 13:50 30/11/2023 25,019 Tag Lớp 12

Truyện ngắn Thuốc là tác phẩm nước ngoài số ít trong văn học mười hai. Bài phân tích dưới đây sẽ giúp các em hiểu thêm các tầng ý nghĩa của tác phẩm, giúp các em dễ phân tích mang lại điểm cao hơn.

Phân tích truyện ngắn “Thuốc” của nhà văn Lỗ Tấn
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Sơ đồ tư duy Phân tích bài Thuốc 

Một trong những cách học hiệu quả mà chẳng phải tốn công sức nhất khi học những tác phẩm văn học chính là việc lập sơ đồ tư duy. Dưới đây là sơ đồ tư duy phân tích bài Thuốc dành cho các em. 

2. Lập dàn ý Phân tích bài Thuốc 

2.1 Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Lỗ Tấn 

- Tên thật là Chu Thụ Nhân (1881 - 1936)

- Quê ở Thiệu Hưng - Chiết Giang - Trung Quốc

- Từ năm 13 tuổi vì chứng kiến cha mình do không có tiền chữa bệnh nên ông có ước mơ trở thành thầy thuốc để giúp người nghèo

- Ông được cử sang Nhật du học, nhưng rồi ông nhận ra ngoài các bệnh thể xác thì việc chữa bệnh tinh thần càng quan trọng hơn

- Ông quyết định theo đuổi nghiệp văn học để có thể đem tác phẩm của mình thức tỉnh nhiều người hơn

- Ông từng được nhiều người Trung Quốc ca ngợi là linh hồn của dân tộc

- Ngòi bút của ông chủ yếu hướng tới mục đích vạch trần những thói hư tật xấu, mặt tối của xã hội

- Một số tác phẩm tiêu biểu của ông: AQ chính truyện, Thuốc, Cố hương,...

2.2 Thân bài 

a. Giới thiệu về tác phẩm

- Tác phẩm “Thuốc” được nhà văn Lỗ Tấn viết năm 1919 

- Đó là thời gian cuộc vận động Ngũ Tứ nổ ra

- Ý nghĩa nhan đề “Thuốc”

+ Nghĩa đen: là chỉ phương thuốc chữa bệnh Lao đang được nhiều người truyền miệng là thuốc thần. Đây là loại thuốc chưa có từng có người thành công, chưa có cơ sở khoa học nào nhưng vẫn được những người mê tín coi như là thuốc tiên, sẵn sàng bỏ công sức tiền bạc để tìm mua.

+ Theo nghĩa tường minh, đây còn là căn bệnh tinh thần, là sự mê muội mê tín lạc hậu mà người dân thời đó mắc phải. Không chỉ là y tế lạc hậu mà còn là con người thiếu kiến thức. Những người có kiến thức, đã được giác ngộ cách mạng lại xa dân, không trò chuyện, không làm cho dân hiểu mình.

- Chính vì vậy, có thể hiểu Thuốc vừa là thuốc để chữa căn bệnh Lao nhưng cũng là thuốc độc khiến cho người dân ngày càng u mê hơn, lạc hậu hơn

- Nhan đề chỉ có một chữ thôi nhưng cũng đủ để nói lên sự lo lắng của tác giả với thực trạng thời đại và lời cảnh tỉnh mà Lỗ Tấn muốn nhắc nhở người dân.

b. Nhân vật Hạ Du

- Tác giả không để người chiến sĩ Hạ Du xuất hiện trực tiếp hay có bất kỳ lời thoại nào mà chỉ qua lời nói chuyện của những nhân vật khác

- Hạ Du là người chiến sĩ của đợt đầu cách mạng, anh được giác ngộ sớm, sẵn sàng làm quân tiên phong dù biết đó là con đường rất nguy hiểm. Anh biết rằng thời điểm đó nếu theo cách mạng thì nghĩa là anh đã đặt một chân vào cửa tử, là con đường không có lối quay lại với sự sống, với gia đình

- Nhưng thời kỳ đó không ai hiểu những việc anh làm, những điều mà anh nói. Trong đó có cả hàng xóm thân thiết, thậm chí ngay cả mẹ anh cũng không hiểu

- Anh hy sinh thân mình cho đất nước cho nhân dân. Nhưng vì sự mê tín của mọi người mà người ta lại lấy máu của anh làm bánh bao - dùng như phương thuốc chữa bệnh lao.

-> Anh là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm, yêu nước nhưng lại cô đơn trong chính dân tộc mình. Hạ Du chính là biểu tượng cho một thế hệ chiến sĩ của cách mạng năm 1911 nổ ra để đánh đổ phong kiến thực dân. Nhưng cuộc kháng chiến thất bại hoàn toàn do cách mạng nhưng thiếu nhân dân.

c. Thái độ của người dân khi thấy cái chết của người chiến sĩ Hạ Du

- Không có mấy thương tiếc, phần lớn dân chúng chỉ tò mò đổ ra xem buổi hành hình của người chiến sĩ Hạ Du.

- Sau khi anh chết, người dân vẫn tụ tập bàn tán trong quán trà của Lão Hoa trong thái độ miệt thị, khinh miệt,

-> Đây chính là minh chứng cho sự xa dân của cuộc cách mạng khi họ chiến đấu mà không ai hiếu. Cũng là lời vạch trần của tác giả Lỗ Tấn về sự mê tín, thiếu hiểu biết của nhân dân thời đó. 

d. Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ cùng đi thăm mộ con

- Đây là cuộc vô tình gặp mặt của mẹ Hạ Du và bà Hoa. Một người mất con vì căn bệnh Lao, vì phương thuốc bánh bao tẩm máu người và một người mất con vì chiến tranh, vì thời cuộc.

- Họ gặp nhau tại nghĩa trang khi cả Thuyên và Hạ Du đều mất vào mùa thu năm trước. Thanh minh năm sau, hai người mẹ cùng lúc đến thăm mộ con.

- Con đường mòn phân chia nghĩa trang thành hai khi như là biểu tượng của sự lạc hậu của tập quán và sự đổi mới trong suy nghĩ của con người. Hai người mẹ tuy không thân thiết nhưng cùng nỗi đau, cùng sẻ chia với nhau.

- Vòng hoa trên mộ của người chiến sĩ Hạ Du như thể hiện niềm hy vọng của tác giả với kháng chiến, với thời đại. Bởi lẽ đây chính là minh chứng cho việc đã có người hiểu được con đường Hạ Du đi, con đường cách mạng kêu gọi nên mới thể hiện sự đồng cảm qua vòng hoa. Vòng hoa này cũng như là món quà của tác giả, là sự cảm thông, trân trọng với những người chiến sĩ luôn kiên cường dũng cảm dù biết muôn ngàn nguy hiểm đang chờ mình.

2.3 Kết bài

- Tóm lại giá trị nội dung truyện ngắn.

- Qua truyện ngắn “Thuốc”, nhà văn Lỗ Tấn đã vạch ra rõ ràng về căn bệnh thời đại, về sự mê tín lạc hậu vẫn đang còn trong suy nghĩ của người dân.

- Căn bệnh tinh thần này còn nguy hiểm, khó chữa hơn những căn bệnh thể xác khác nên tác giả cũng đang hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn vào sự đổi thay của con người.

- Cách viết khái quát, trần thuật một hiện thực xã hội cùng với những hình ảnh chân thực cô đọng khiến cho xã hội thời đó được hiện ra rõ nét trước mắt người đọc.

Combo sổ tay các môn học đã có mặt trên kệ sách của nhà bạn chưa? 

3. Hướng dẫn Phân tích bài Thuốc 

3.1 Phân tích bài Thuốc mẫu 1

Trong thời gian đầu của thế kỷ XX, đó là lúc đất nước Trung Quốc đang một cổ hai tròng với một bên là ách thống trị của nhà Mãn Thanh với một bên là sự can thiệp của các nước đế quốc Châu Âu. Đây là lúc đất nước Trung Hoa rơi vào khủng hoảng, thảm cảnh, suy thoái trầm trọng. Nhân dân ngập trong lo sợ, đói nghèo, lạc hậu dường như không có lối thoát. Đây chính là lúc nhà văn Lỗ Tấn nhận ra sự bệnh tật lạc hậu trong tâm hồn còn đáng sợ và nguy hiểm hơn cả những căn bệnh thể xác. Chính vì vậy ông đã chắp bút viết lên tác phẩm “Thuốc”. Đây chính là hiện thực của Trung Quốc thời gian đó, cũng là lời cảnh tỉnh cho những con người mê tín ngu muội cần phải thay đổi ngay lập tức nếu không biết chết dần chết mòn vì sự thiếu hiểu biết của bản thân.

Tác giả Lỗ Tấn sinh ra ở Chiết Giang, Trung Quốc. Ông sinh ra trong gia đình nghèo khó, tận mắt ông đã chứng kiến cha mình chết dần vì bệnh mà không có tiền mua thuốc uống. Chính vì vậy ông đã nuôi dưỡng mong ước trở thành một thầy thuốc từ khi còn nhỏ để cứu những người nghèo khó giống như cha ông. Ngay khi lớn lên ông đã thực hiện ước mơ của mình mà đi du học Nhật Bản về ngành y, nhưng khi ông nhận ra rằng “chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần” thì ông đã lựa chọn lại mà theo con đường văn học. Ông mong muốn dùng ngòi bút của mình, dùng những tác phẩm của bản thân để giúp cho con người có suy nghĩ, lối sống tốt đẹp hơn. Các tác phẩm của ông rất có tính miêu tả và hiện thực khi ông không hề né tránh hay nói giảm nói tránh những hiện thực xấu. Ông vạch trần những tật xấu, những thói hư hay nói thẳng quần chúng nhân dân ngu dốt mê muội. Tất cả sự cố gắng đó cũng chỉ để tìm ra một phương thuốc nào đó có thể giúp cho dân tộc trở mình, thoát được những u tối tệ nạn do thiếu hiểu biết. Ông nghiêm khắc phê phán sự biến chất của con người, sự mê muội mê tín khi nhân dân không tin vào cách mạng. Chính sự thật này giúp cho các tác phẩm của ông mang đậm giá trị nhân văn. 

Truyện ngắn “Thuốc” được ông viết vào năm 1919, đây là lúc phong trào chống đế quốc bùng nổ, học sinh sinh viên Bắc Kinh đứng lên biểu tình đòi quyền dân chủ cho đất nước. Tác phẩm nói về căn bệnh ngu dốt, đớn hèn của nhân dân cũng như cách chiến đấu sai lầm của cách mạng khi họ chọn chiến đấu không có nhân dân. Đây chính là lời cảnh tỉnh cho cả đất nước khi họ cần thật sự nghiêm túc để nghĩa phương thuốc có thể cứu lấy cả dân tộc. Nhan đề tác phẩm rất ngắn, chỉ vỏn vẹn một chữ “Thuốc” khiến cho người đọc có thể hiểu được nhiều tầng ý nghĩa. Thuốc theo một nghĩa đơn giản chính là loại thuốc chữa bệnh thể tác cho con người. Ở đây thuốc mà tác giả nói đến là một “chiếc bánh bao có tẩm máu người” được mọi người đồn thổi là có thể chữa được căn bệnh lao. Chỉ cần nghe thôi cũng khiến người đọc cảm thấy nổi da gà. Làm sao mà máu người có thể dùng để nấu ăn lại còn có thể cứu người nữa. Đây chỉ có thể là cách suy nghĩ lạc hậu, ghê tởm, dị hợm phản khoa học của những con người u mê với những niềm tin lố bịch. Ông đang nhớ lại chính những ký ức của bản thân ông khi mà bố mình đã lạc hậu tin theo lời của lang băm mà dùng một đôi dế một đực một cái cùng với rễ cây mía đủ ba năm kinh sương để chế thuốc chữa bệnh phù thũng. Và rồi chính căn thuốc này khiến cho ông mất. Nhân dân Trung Hoa đã quá tin vào những cách chữa bệnh, những bài thuốc truyền miệng qua bao đời và được tin bằng sự mê tín của họ cho thấy thực trạng xã hội thối nát u mê thời đó. Tiêu đề “Thuốc” còn có ý nghĩa sâu xa hơn, nghĩa tường mình khiến cho người đọc phải suy nghĩ. Thuốc không chỉ là phương thuốc chữa các căn bệnh thể xác mà là cách để chữa những căn bệnh tinh thần của người dân khi đó. Đó là bệnh cổ hủ, lạc hậu, bệnh vô cảm, bệnh gia trưởng, bệnh mê tín, bệnh ngu dốt của nhân dân Trung Hoa. Phải ngu dốt thiếu hiểu biết đến cùng cực cũng như sự mê tín đến vô vọng mới có thể khiến cho vợ chồng lão Hoa dành hết tiền tiết kiệm để mua chiếc bánh bao tẩm máu người chữa bệnh cho con trai. Khi mà con mình mắc căn bệnh nguy hiểm, họ vừa vì thiếu hiểu biết, vừa vì thương con nên hai vợ chồng đã đặt cược và cái bánh bao tẩm máu người đó và rồi khi ván cược đó thua thì họ phải đánh đổi bằng mạng sống của con họ - Thuyên. Nếu như y học hiện đại hơn, con người có kiến thức hơn thì căn bệnh không quá nguy hiểm như ho lao đã có thể chữa được dễ dàng nếu họ chữa đúng cách, Thuyên đã có thể thoát khỏi cái chết. Nhưng thực tế lại nghiệt ngã khi không chỉ gia đình ông Hoa mà cả quán nước đều tin tưởng vào phương thuốc vô lý đó, tin vào thứ thần dược ghê tởm. Đó không phải phương thuốc chữa bệnh mà là thuốc độc đã giết đi con người ta cũng như là thuốc độc giết đi cả một xã hội. Từng gia đình, từng con người đều là phần tử của đất nước, chính sự u mê lạc hậu về kiến thức cũng như chính trị của mọi quần chúng nhân dân đã khiến cho đất nước Trung Quốc rơi vào trong thảm cảnh khó khăn nguy hiểm.

Thật là nực cười khi mà chiến sĩ cách mạng là những người xung phong ra tuyến đầu chiến trường bảo vệ đất nước khỏi giặc ngoại xâm thì khi họ bị xử tử bị coi là giặc, là phản nghịch thì người dân lại nô nức tranh nhau đi xem như trò vui, lại còn tranh nhau mua máu của họ về để làm thuốc. Những người không tiếc thân mình vì nhân dân gia đình xã hội được tự do độc lập thì khi anh ngã xuống, những con người đó lại khinh miệt, không hề xót thương mà hả hê nhìn ngắm. Tác giả Lỗ Tấn đã trực tiếp chỉ ra cái sai của cách mạng, của nhà nước khi họ chiến đấu không có nhân dân, họ không lấy dân làm gốc mà rời xa nhân dân khiến cho quần chúng nhân dân u mê ngu muội tin vào những điều mê tín lạc hậu. Chính sự sai đó đã khiến cho đất nước ngày càng lún vào bế tắc ngày càng sâu hơn. Chỉ với nhan đề tác phẩm mà nhà văn đã miêu tả được hết hiện thực của đất nước, của xã hội Trung Hoa thời đó, cũng là sự xót xa trăn trở của tác giả trước tình cảnh của đất nước.

Tác giả đã đưa người đọc nhập vào tác phẩm với hình ảnh một “đêm mùa thu”, là lúc bầu trời đang nhá nhem sắp sáng, đường xá vẫn còn tối om. Đây là thời điểm tĩnh lặng nhất trong ngày, không một bóng người nào xuất hiện “ngoài những giống đi ăn đêm, còn thì ngủ cả”. Nhưng ngày hôm nay lại rất đặc biệt với gia đình lão Hoa, lão thức dậy rất sớm, khi mặt trời còn chưa mọc thì lão đã rời nhà để đi tìm thứ thuốc “thần” với hy vọng có thể cứu con lão trở về từ cõi chết. Con đường thì tối om lạnh lẽo nhưng trong lòng lão lại phấn khởi vui vẻ đến lạ thường với ông nghĩ đến tương lai tươi đẹp khi con lão được cứu sống. Nhưng khi đến pháp trường, khi ông nhìn thấy tận mắt thứ thuốc được mọi người trong quán nước đồn thổi là thuốc chữa bệnh ho lao thì ông lại không dám cầm lấy. Bởi hình ảnh trước mắt ông quá kinh khủng, đó là “chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi” của người chiến sĩ vừa bị hành hình xử tử. Không thể tin được chiếc bánh bao nhuốm máu của người chết lại có thể sử dụng như một phương thuốc chữa bệnh. Một người chiến sĩ yêu nước thương dân bị xử tử không những không ai thương tiếc mà còn nhẫn tâm dùng chính dòng máu tươi của anh coi như tiền để bán, để nấu ăn. Bởi lúc này nhân dân đang coi những người chiến sĩ như kẻ địch, là kẻ tội đồ nên mới có thể dửng dưng trước sự sống chết của họ, không thương tiếc cho người chiến sĩ Hạ Du. Sau cơn sốc, lão Hoa vẫn trân trọng nâng niu cầm chiếc bánh bao trên tay, lão không còn nghe hay nhìn thấy gì hết nữa mà chỉ nhìn thấy hình ảnh con trai chờ ông về, nhìn thấy đứa con độc đinh của gia tộc đang chờ ông cứu.  Ông mang chiếc bánh bao loang lổ máu tươi về đưa cho vợ, bà Hoa thì gói chiếc bánh vào lá sen để đem đi nướng biến thành một thứ đen đen tròn tròn. Họ vẫn đặt trọn niềm tin vào phương thuốc và nói với con trai “chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi”. Họ vẫn tin tưởng chỉ cần ăn hết cái bánh, ngủ một giấc là căn bệnh đã hành hạ con trai bao năm sẽ lập tức được chữa khỏi. Chính sự thiếu hiểu biết, tình yêu thương con vô điều kiện đã khiến cặp vợ chồng mù quáng không một chút nghi ngờ. Không chỉ cặp vợ chồng này mà tất cả hàng xóm láng giềng cũng tin cũng đồn rằng  “cam đoan thế nào cũng khỏi”, thứ thuốc này đặc biệt lắm”, “nhất định sẽ khỏi thôi mà”,...Chính những câu nói vu vơ không căn cứ đó lại càng gieo giắt thêm hy vọng cho gia đình ông bà Hoa. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, trên đời này không có phương thuốc nào là thuốc tiên bởi sau khi ăn chiếc bánh bao đó, Thuyên vẫn chết. Cái chết đầy xót xa khi chính sự mê muội u mê của cha mẹ mình, chính chiếc bánh mẹ đưa cho anh ăn đã gián tiếp đưa anh đến với cõi âm. Tác giả Lỗ Tấn đã vạch ra hiện thực của đất nước khi chính chế độ nhà Thanh thống trị đã khiến cho nhân dân rơi vào cuộc sống bế tắc, lạc hậu. Tất cả các căn bệnh đều cần cách chữa phù hợp, phương thuốc dựa trên trên khoa học chứ không phải là sử dụng các phương thức mê tín dị đoan.

Nhà văn Lỗ Tấn không để cho người chiến sĩ cách mạng Hạ Du xuất hiện trực tiếp, không một lời thoại nào cho anh. Anh chỉ được xuất hiện trong các câu chuyện của những người khách trong quán nước. Hạ Du là người thông minh dũng cảm, được giác ngộ cách mạng từ sớm. Anh sẵn sàng xả thân mình, hy sinh cho dân tộc cho đất nước. Nhưng đổi lại là gì, với người dân anh lại là kẻ điên, bị mọi người gọi bằng những nhân xưng không tôn trọng như “nhãi con”, “khốn nạn”, “quỷ sứ”,...Đến cả những người thân ruột thịt gia đình của anh cũng như vậy bởi người tố cáo anh với quân giặc chính là chú ruột của anh. Và rồi cái giá để phản bội cháu mình cũng chỉ đáng hai mươi lạng bạc. Họ tiếc tiền hơn cả mạng người, khi mà anh đã mất đi thì máu của anh cũng là thứ dùng để mua bán kiếm tiền. Thật nực cười, trớ trêu khi người chiến sĩ cách mạng đang tìm cách cứu nước đánh giặc lại bị mọi người coi là kẻ thù, là giặc trong chính ngôi nhà anh đang bảo vệ. Nhờ vào hình tượng người tử tù, người chiến sĩ cách mạng Hạ Du chính là lời lên án mạnh mẽ chế độ của đất nước, sự suy thoái của nước nhà. Khi mà xã hội Trung Quốc giờ đây như một người bệnh tật đầy thân, đang đứng bên bờ vực cái chết và đang cần cấp thiết liều thuốc để có thể thoát được kiếp diệt quốc.

Thời gian mùa thu của chết chóc, ảm đạm không chỉ bởi thời tiết lạnh lão mà còn là bởi cái chết bởi sự kiện “trảm quyết” người chiến sĩ Hạ Du dần dần thay thế bằng mùa xuân với tiết thanh minh có phần ấm áp ánh sáng hơn. Tiết thanh minh đấy không gian của tác giả lại đến với nghĩa trang với con đường mòn quanh co nhỏ hẹp được tạo ra khi mọi người đi nhiều. Con đường này cũng là ranh giới giữa sự sống với cái chết, cõi âm với chốn dương, nó còn là ranh giới giữa những người chết do bệnh do nghèo với những người chết do bị xử tử, do chết trong tù. Đây chính là ranh giới đã được ấn định hằn sâu trong tâm thức mỗi người dân, là sự khác nhau giữa các lỗi suy nghĩ. Mùa xuân năm nay, vào tiết thanh minh có hai người mẹ cùng hoàn cảnh mất con đã đến thăm mộ con mình. Bà Hoa với mẹ Hạ Du đã vô tình gặp nhau. Nhưng chính sự không thể thấu hiểu, không tìm được cảm thông của người chiến sĩ khiến cho chính mẹ Hạ Du cũng không thể hiểu được những gì con mình nghĩ, con mình làm. Chính vì vậy khi bà cảm thấy mình bị bắt gặp khi mình đi qua lằn ranh của nghĩa trang khiến mặt bà “đỏ lên vì xấu hộ”, thậm chí bà còn không dám bước tới ngôi mộ của con trai mình. Nhưng dường như tương lai sẽ càng tốt hơn, mọi điều đều có thể giải quyết khi chính bà Hoa đã chủ động vượt qua con đường mòn đó để an ủi, động viên, chia sẻ với người mẹ cũng mất con như mình. Cả hai đều bất ngờ khi nhìn thấy một vòng hoa nhỏ được đặt cẩn thận trên mộ Hạ Du. Bó hoa không tên tuổi, khó tìm ra người tặng nhưng cũng có thể thấy dường như người chiến sĩ đó đã dần có người hiểu mình, có người dân đã nhớ đến anh, đã hiểu cho những gì anh làm mà thấy biết ơn, thấy hiểu và thật lòng thương xót cho cái chết của anh. Vòng hoa nhỏ bé nhưng mang theo là cả một bầu trời ánh sáng mới, nhen nhóm cho hy vọng cứu nước của những người làm cách mạng.

Cùng với ngòi bút bén nhọn nhưng đầy xúc tích cô đọng và cách chọn hình ảnh truyện rất sống động mà chỉ qua những dòng văn, tác giả Lỗ Tấn đã khiến cho người đọc phải thật tâm suy nghĩ đến hình ảnh đất nước Trung Quốc thời đó. Lỗ Tấn được nhiều người ca ngợi là  “linh hồn của dân tộc”, ông vui cùng dân tộc, đau cùng đất nước. Mỗi tác phẩm của ông đều mang giá trị văn hóa, giá trị lịch sử mà dù bao nhiêu năm về sau người đọc đều có thể cảm nhận được cảm xúc lúc đó của ông cũng như những gì ông muốn truyền tải đến mọi người.

>> Mời bạn tham khảo: Soạn bài Ngữ Văn 12

3.2  Phân tích bài Thuốc mẫu 2

Trong nền văn học Trung Quốc, có một nhà văn nổi tiếng với quan điểm của mình "Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần" chính là nhà văn Lỗ Tấn. Ông chính là nhà văn tiên phong của nền văn học Trung Quốc và cũng là tấm gương cho biết bao thế hệ văn học nước nhà. Ông có một sự nghiệp văn chương đồ sộ, là người khai sinh ra nền văn học cách mạng của đất nước tỷ dân Trung Quốc. Mỗi tác phẩm của ông đều để lại cho người đọc những quan niệm sống, những câu chuyện và những bài học rất sâu sắc. Một trong những tác phẩm mà được người đọc Việt Nam biết đến nhiều nhất chính là truyện ngắn “Thuốc”.

Tác phẩm “Thuốc” được ông sáng tác vào năm 1919 là khi đất nước Trung Quốc đang chịu hai chế độ, là nước thuộc địa nửa phong kiến. Đấy là khi nhân dân họ phải chịu một bên là chế độ phong kiến của nhà Thanh một bên là sự xâu xé của các nước đế quốc. Tác phẩm được đăng ở Tân thanh niên và sau đó được in trong “Gào thét”. Ông viết truyện ngắn này nhằm mục đích phanh phui hết hiện thực xã hội khi đó, là sự lạc hậu u mê của quần chúng nhân dân, là tấn bi kịch của những người làm cách mạng khi họ đã quá xa dân, không có sự đồng cảm song hành của xã hội. Tác phẩm được chia thành hai mốc thời gian với hai câu chuyện tuy khác nhau nhưng là hệ quả của nhau. Đó là mùa thu ảm đạm mọi người cùng nói về thần dược thuốc chữa bệnh sau đó là ăn thuốc. Giai đoạn tiếp theo lại chính là hệ quả của Thuốc đã để lại vào mùa xuân tiếp theo.

Ngay từ khi đọc nhan đề tác phẩm đã có thể gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Thuốc có thể hiểu theo một nghĩa đơn giản chính là loại dược phẩm, thứ thuốc được truyền miệng là có thể chữa khỏi bệnh ho lao. Và loại thuốc đó chính là thứ "bánh bao tẩm máu người chết chém", là loại thuốc kinh tởm, quái đản, phản lại hoàn toàn khoa học. Một tầng nghĩa tiếp theo chính là thứ thuốc cần có sớm để chữa những bệnh trong tâm hồn con người khi đó. Đó là lời cảnh tỉnh cho đất nước, là liều thuốc đặc trị sự u mê, lạc hậu, vô cảm của nhân dân cũng như là liều thuốc nhắc người làm cách mạng phải thay đổi cách chiến đấu. Họ cần lấy dân làm gốc, phải làm cho dân tin dân yêu dân cùng chiến đấu thì cách mạng mới có thể đem lại hiệu quả cho đất nước.

Câu chuyện được mở đầu vào thời điểm “đêm thu gần về sáng”, khi mà gà còn chưa gáy thì lão Hoa đã lọ mọ đến pháp trường để mua “thần dược”. Dù ghê tởm rợn tay nhưng khi nhìn thấy loại thuốc mà được mọi người tin tưởng đồn nhau ông vẫn vui vẻ mang về bởi lẽ ông nghĩ, ông đã có thể cứu được đứa con trai duy nhất, đứa độc định của cả dòng họ. Lão để chiếc bánh bao tẩm máu người trong gói bánh, nâng niu nó như đứa con của mình dù lúc đầu ông còn không dám nhìn, không dám chạm vào. Ông mang về đưa cho vợ đem đi nướng chín và giục cậu con trai ăn với niềm tin “Sẽ khỏi ngay”. Không chỉ cặp vợ chồng vì quá yêu thương con mà trở nên lú lẫn mà cả những người dân làng xung quanh cũng có niềm tin vào loại thuốc này khi học ngày ngày bàn tán tin nó là một loại thần dược ăn vào "cam đoan thế nào cũng khỏi, nhất định thế nào cũng khỏi, thứ thuốc này đặc biệt lắm". Nhưng sự thật vẫn là sự thật, chiếc bánh bao - thứ thần dược đó cũng không thể nào cứu được con trai họ, Thuyên vẫn ra đi bởi căn bệnh ho lao đó. Chính cái chết này là lời cảnh tỉnh sự u mê của người dân, vạch trần những góc tối tâm hồn, sự thiếu hiểu biết người người dân lúc đó. Bánh bao tẩm máu người không những không phải thần dược cứu người mà còn là thứ thuốc độc khiến cho Thuyên chết sớm hơn.

Và song song với nỗi đau mất con do bệnh tật chính là cái chết của người chiến sĩ Hạ Du, người mà họ đã lấy máu của anh đem đi làm bánh bao. Hạ Du không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm mà chỉ qua những lời bàn tán của người dân trong quán nước của lão Hoa. Anh là một thanh niên sớm được giác ngộ cách mạng, sớm hiểu được mặt tối của xã hội mà sẵn sàng đứng lên chiến đấu. Nhưng rồi trong mắt bà con hàng xóm hay cả trong chính gia đình anh lại đánh giá anh là đồ điên, là thứ khốn nạn, là thằng nhãi con, là thằng quỷ sứ,...để rồi chỉ vì hai mươi lạng bạc mà người chú ruột của anh đã tố cáo anh với quân giặc. Đến cả khi anh mất do bị xử trạm thì bác cả anh cũng chỉ coi máu của anh là thứ đổi tiền, lão Nghĩa còn tiếc cái áo của anh hơn cả tính mạng anh. Toàn dân coi anh là giặc, cái chết của anh là điều ai cũng mong muốn, là điều tốt với mọi người. Trong chính xã hội mà người chiến sĩ bán mạng để bảo về thì những gì họ nhận được lại là sự coi khinh, không hiểu của người dân. Hình ảnh cái chết của Hạ Du đã nói lên được cái sai của cách mạng khi họ đã xa rời dân chúng, không cứu dân khỏi sự u mê, không chỉ ra được cái sai của thời đại.

Thu qua rồi xuân cũng đã đến, trong tiết thanh minh tiếp theo tại nghĩa trang nơi mà từng lớp từng lớp mộ kín cả con đường. Ở đó có ranh giới rõ ràng, một bên là những người chết do bệnh do nghèo như Thuyên và một bên là những người phải ra đi bởi sự mê tín cổ hủ, ấu trĩ của thời đại như Hạ Du. Những suy nghĩ đó như con đường mòn dẫn tới nghĩa địa dường như không thể vượt qua. Và rồi sự ấm áp của con người, hy vọng lại đến khi bà Hoa đã chủ động bước qua ranh giới để sang an ủi mẹ của người chiến sĩ Hạ Du. Hình ảnh vòng hoa không tên trên mộ Hạ Du vừa là tấm lòng, là vòng hoa mà tác giả đã dành cho những người chiến sĩ ra đi vì chiến đấu. Đó là còn là niềm tin vào tương lai khi có người đã hiểu được cách mạng, hiểu được những gì Hạ Du làm. Dường như lúc này sự hy sinh của anh đã không trở nên vô nghĩa, máu anh chảy ra cũng đã thức tỉnh được một số người. Tuy không nhiều nhưng ít nhất mọi thứ đã có biến chuyển tốt hơn, có người đã nguyện theo con đường cách mạng vinh quang.

Truyện ngắn kết thúc nhưng người đọc vẫn không thể dừng suy nghĩ đến xã hội Trung Hoa thời kỳ đó. Câu chuyện không chỉ là bài văn miêu tả vẽ ra thực tế xã hội mà còn là thông điệp của tác giả Lỗ Tấn muốn gửi đến người đọc, để lại cho ta những giá trị văn học, giá trị cuộc sống vượt thời đại.

Khóa học PAS THPT đang có ưu đãi cực hời dành cho các bạn đấy, nhanh tay đăng ký nhé! 

3.3  Phân tích bài Thuốc mẫu 3

Lỗ Tấn là một trong những nhà văn vĩ đại nhất của văn học Trung Quốc. Ông ủng hộ việc sử dụng tác phẩm của mình để điều trị căn bệnh tinh thần của người dân Trung Quốc thời bấy giờ. "Thuốc" là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, được sáng tác vào năm 1919 khi Phong trào Ngũ Tứ bùng nổ. Nhan đề tác phẩm là “thuốc” và đây cũng là hình ảnh trung tâm được phản ánh trong tác phẩm. Thuốc dùng ở đây là bánh bao tẩm máu của một tử tù mà gia đình lão Hoa đã mua bằng số tiền dành dụm được để chữa bệnh cho con trai. Trong suy nghĩ của người Trung Quốc thời bấy giờ, bánh bao tẩm máu người là phương thuốc hữu hiệu và hữu hiệu nhất để chữa bệnh lao nguy hiểm.

Nhìn từ góc độ này, tác phẩm đã cho thấy sự cổ hủ, lạc hậu và sự mê tín mù quáng của những người dân thiếu hiểu biết. Đồng thời, nó cho người đọc thấy sự trì trệ của Trung Quốc lúc bấy giờ như thế nào, đồng thời đặt ra vấn đề chống căn bệnh mê tín dị đoan đã ăn sâu vào tâm trí người dân nghèo. Ngoài ra, Lỗ Tấn cũng muốn đề cập đến phương pháp điều trị bệnh tinh thần của Trung Quốc. Thứ nhất là căn bệnh gia trưởng, ảo tưởng và lạc hậu trong khoa học. Tác giả đã đặt ra một vấn đề rằng người Trung Quốc phải thức và không được phép ngủ trong những ngôi nhà hộp sắt không cửa sổ như vậy nữa. Căn bệnh thứ hai là sự lạc hậu về chính trị của người Trung Quốc. Và căn bệnh cuối cùng là căn bệnh của những người cách mạng hiện đại xa rời quần chúng. Với nhan đề rất ngắn gọn chỉ một từ nhưng đã khái quát và nêu được những vấn đề chính của tác phẩm.

Ngoài ra, để làm nổi bật và làm rõ quan điểm, chủ đề mà tác giả truyền tải, không thể không kể đến sự xuất hiện của các nhân vật trong tác phẩm. Đầu tiên là sự xuất hiện của những nhân vật quần chúng nhân dân, bọn chúng xuất hiện lần đầu vào sáng sớm, trên pháp trường, khung cảnh vô cùng hỗn loạn, họ xô đẩy nhau khiến Lão Hoa suýt nữa mất trí mà ngã xuống. Họ mang đến sự phấn khích tột độ, khao khát được xem cảnh hành quyết chiến sĩ cách mạng Hạ Du. Lần thứ hai tác giả miêu tả đám đông là lúc bình minh, khi không gian thay đổi, từ pháp trường đến quán trà của Lão Hoa, họ bàn luận, bình luận về tử tù, về cái chết. Khi các tù nhân nghe những gì Hạ Du đã làm, họ nghĩ rằng Hạ Du bị điên và vô cùng đau đớn khi người tố cáo anh lại là người chú ruột của mình. Ông Ba tố cáo cháu trai mình để lấy tiền thưởng, ông còn lấy máu của cháu mình để làm bánh bao bán cho lão Hoa chữa bệnh cho Thuyên, Qua những gì họ nói và bàn luận chúng ta có thể thấy rằng họ là những người rất thiếu hiểu biết, ngu dốt về kiến thức khi cho rằng bánh bao tẩm máu người có thể chữa được bách bệnh. Đây là một việc làm lạc hậu, mê tín dị đoan, là một căn bệnh tinh thần khủng khiếp còn khủng khiếp hơn cả bệnh lao đang gặm nhấm người bệnh của người dân Trung Quốc, khiến họ trở nên mất ý chí, đần độn.

Thứ hai chính là người xuất hiện gián tiếp trong những câu chuyện của mọi người trong quán nước, là người chiến sĩ Hạ Du, là một người mới trong cái xã hội lạc hậu khi đó. Anh là người con của cách mạng, yêu nước và được cách mạng giác ngộ từ sớm. Trong cái xã hội u mê khi đó thì những suy nghĩ, những điều Hạ Du làm đều là những thứ mới mẻ mà họ không thể nào hiểu, không thể nào theo được sự tấn tiến đó. Khác mọi người cũng là cái tội khi không ai hiểu anh, họ còn coi anh là quân giặc, là kẻ thù, là người đáng phải chết. Đối với người dân khi đó, những lý tưởng của anh đều là điều điên rồ, chính vì thế nên khi anh chết mọi người chỉ bàn tán chứ không hề có chút thương xót nào. Đến cả người thân của anh cũng vậy, chú ba của anh thì đem anh giao ra cho giặc đổi lấy hai mươi lạng bạc còn mẹ anh thì cảm thấy xấu hổ vì con mình. Hạ Du chính là hình ảnh của những người chiến sĩ đi đầu cho cách mạng đương thời cũng là một số phận bi kịch của chàng thanh niên trẻ.

Tác phẩm kết thúc trong khung cảnh mùa xuân khi hai bà mẹ cùng lúc đi thăm mộ con mình. Đây cũng là sự biến chuyển khéo léo về cả thời gian và không gian của tác giả khi mùa thu u ám lạnh lẽo của cái chết biến mất thay vào là sự hồi sinh của mùa xuân tươi đẹp. Không gian của nghệ thuật trong cảnh này chính là con đường mòn như để phân chia ranh giới giữa những người chết do bị xử trạm và một bên là những cái chết do nguyên nhân khác. Đây chính là sự phân biệt đối xử đã hằn sâu trong tâm thức người dân khi đó. Hành động bước qua ranh giới của bà Hoa khi và đã chủ động đến bên an ủi mẹ Hạ Du như một khởi đầu cho sự thay đổi trong suy nghĩ con người. Thêm vào đó là hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du như là lời thấu hiểu của một ai đó đã hiểu về những gì Hạ Du làm. Cũng có thể đây là vòng hoa tác giả để trân trọng những người chiến sĩ đã dũng cảm chiến đấu dù biết trước thứ chờ đợi mình chính là cái chết nhưng vẫn dám đứng lên đi tiên phong. Giờ đây mẹ của Hạ Du mời dần hiểu con mình, mới hết xấu hổ vì những gì con làm.

Tác giả Lỗ Tấn đã dùng khá nhiều phương pháp nghệ thuật cho tác phẩm. Đó không chỉ là lối viết cô đọng súc tích mà còn là những hình ảnh mang tính biểu tượng rất lớn như: chiếc bao bao tẩm máu người, hình ảnh vòng hoa lặng lẽ trên mộ, hình ảnh con đường mà người người đi lại quá nhiều,...Thêm vào đó là cách đặt người chiến sĩ cách mạng luôn ẩn trong đám đông để lặng lẽ thức tỉnh họ và ngôi kể thứ ba khiến cho câu chuyện khách quan hơn. Nhưng cũng có những lúc góc nhìn tác chuyển thẳng sang nhân vật khác khiến cho câu chuyện rất sinh động dễ hiểu. “Thuốc” còn là tác phẩm thay lời tác giả chiếu lên xã hội Trung Hoa lạc hậu khi đó, là lời cảnh tỉnh cho những con người u mê lạc hậu, thiếu ánh sáng của khoa học. Lỗ Tấn hy vọng đất nước sớm tìm ra liều thuốc đặc trị những căn bệnh đó để cứu đất nước khỏi thảm cảnh diệt vong.

3.3  Phân tích bài Thuốc mẫu 4

Đại thi hào Lỗ Tấn sinh năm 1881 mất năm 1936 với tên khai sinh là Chu Thụ Nhân. Quên ông ở Thiệu Hưng, Chiết Giang, Trung Quốc. Ông là lớp đầu của nhà văn cách mạng với chủ đề chính là chỉ ra những căn bệnh về tinh thần của quần chúng nhân dân lúc bấy giờ. Chính nó đã khiến cho đất nước Trung Hoa suy thoái dần dần dẫn đến sự diệt vong. Ông chính là ngọn cờ đầu của nền văn học hiện đại với ba tập truyện ngắn, mười sáu tạp tạp văn với nhiều đề tài nhưng chủ yếu là về mặt chính trị và xã hội.

Tác phẩm “Thuốc” được ông sáng tác vào năm 1919 khi mà tầng lớp tri thức nổ ra cách mạng Ngũ Tứ. Ông đã dùng chính tác phẩm này để nói lên những băn khoăn của ông về xã hội Trung Quốc khi nhân dân u mê lạc hậu và cách mạng thì lại rời quá xa dân chúng. Đây cũng là lời gửi gắm, là niềm tin vào tương lai của đất nước Trung Hoa sẽ có một cuộc cách mạng toàn diện có nhân dân trong đó. Bối cảnh xã hội đương thời khi đó cả đất nước Trung Quốc đang phải oằn mình một phần chịu đựng sự cai trị ngột ngạt của triều đình nhà Thanh, một phần chứng kiến sự can thiệp nhúng tay thô bạo của đế quốc phương Tây như Anh, Pháp, Mỹ,...Tất cả điều đó khiến cho đất nước Trung Hoa bấy giờ trở thành đất nước hai chế độ, nửa thuộc địa nửa phong kiến. Lúc này thời vàng son của vua chúa đã kết thúc nhưng sự hiện đại của phương Tây lại chưa thể du nhập. Do đó một xã hội suy thoái, nghèo khó, trì trệ đã đến. Trì trệ chính là bước đi lùi để cả đất nước đi đến diệt vong.

Nhan đề tác phẩm chính là nội dung của câu chuyện “Thuốc”. Phương thuốc hiếm có kinh dị này chính là chiếc bánh bao tẩm máu người, tẩm máu của người tử tù vừa bị xử trảm. Rồi họ mang chiếc bánh bao này về để nướng lên cho người bệnh lao ăn. Chiếc bánh bao đó được người dân truyền miệng là có thể trị được bách bệnh kể cả “tứ chứng nan y” bao gồm bệnh phong, bệnh lao, bệnh cổ, bệnh lại. Con trai của lão Hoa bị bệnh ho lao, vợ chồng ông đã dành hết số tiền mình tích góp bao lâu nay rồi ra tận pháp trường để mua “thuốc” chữa bệnh cho con với một niềm tin con mình sẽ khỏi bệnh. Nhưng hiện thực không bao giờ như mơ, gia đình ông vừa mất hết số tiền cả đời kiếm được mà phương thuốc đó lại không thể cứu mạng đứa con duy nhất của ông - Thuyên vẫn chết vì bệnh.

Tác giả Lỗ Tấn đã trực tiếp đề cập đến một sự thực đáng lo ngại chính là phong cách chữa bệnh theo tâm linh, chọn thuốc theo truyền miệng của đa số người dân Trung Hoa khi đó. Đây chính là sự phản khoa học, lạc hậu thiếu về cả kiến thức và tinh thần của quần chúng nhân dân mà Thuyên chỉ là một trong những nạn nhân của những hủ tục đó.

Lời văn của nhà văn Lỗ Tấn còn mang theo rất nhiều dụng ý khi người bệnh mà ông nói đến ở đây không chỉ là người mắc bệnh lao mà còn là bệnh khác. Lúc này người bị bệnh không phải là Thuyên mà là sự mê muội, là căn bệnh tâm lý không chỉ của ông bà Hoa mà còn là căn bệnh của toàn dân. Với ông lúc này toàn bộ nhân dân Trung Hoa đều mắc căn bệnh nặng phải cần đến loại thuốc đặc trị mới có thể chữa khỏi. Cũng như ông chỉ ra rằng con đường cách mạng của dân tộc đã đi vào ngõ cụt, cần nhanh chóng tìm ra cách mới trước khi đất nước rơi vào thảm cảnh tuyệt vong. 

Tác phẩm mở đầu với cảnh lão Hoa dậy từ rất sớm rồi cầm lấy tiền vợ đưa để đến pháp trường mua chiếc bánh bao được tẩm máu người tử tù để chữa căn bệnh lao cho người con trai duy nhất của mình. 

Lỗ Tấn có lối kể chuyện kết hợp miêu tả rất tự nhiên, sinh động. Nhiều chi tiết nhỏ  kết nối và tạo nên một mạch truyện mà câu chuyện tiếp diễn theo trình tự thời gian. Chẳng hạn, tiếng ho liên tục của  Thuyên dường như  giục lão Hoa phải nhanh chóng lên đường trước bình minh; hay sự thương yêu con kết hợp với niềm hy vọng  khỏi bệnh khiến một ông rảo bước ngày một nhanh hơn. Mù quáng tin vào phương pháp chữa bệnh lao kỳ lạ: bánh bao tẩm máu của tử tù, Lão Hoa cố len lỏi giữa đám đông hỗn loạn đang hối hả mua  thứ mà ông tin là tiên dược là thứ có thể cứu cuộc sống của con trai  mình. Loại "thuốc" quý hiếm đáng sợ này được bày bán như bao sản phẩm thông thường khác. Cách viết chân thực  của Lỗ Tấn khiến người đọc có cảm giác như đang bày ra trước mắt mình một cảnh tượng hãi ​​hùng. Đó là một chi tiết  ẩn dụ khiến không  chỉ  lão Hoa vội vã đi mua bánh bao máu của tử tù về chữa bệnh mà còn rất nhiều người khác  có cùng mục đích với lão. Qua tình tiết này, Lỗ Tấn muốn nói đến một thực tế đáng lo ngại: đại đa số người dân  Trung Quốc  vẫn tin vào những điều nhảm nhí không có cơ sở khoa học, bởi  mê tín dị đoan đã tiêm nhiễm vào đầu óc, họ trở thành những căn bệnh tâm thần không thể chữa khỏi.

Ở màn thứ hai, niềm vui, niềm tin và hi vọng của lão Hoa được làm tăng cao nhanh chóng. Ngay sau khi về đến nhà,  vợ ông đã vội vàng nấu "thuốc tiên" cho con trai ăn một chiếc bánh bao tẩm máu đã được nướng đen. Thuyên cầm lấy chiếc bánh  nhìn,  cảm thấy rất lạ lùng, như thể mình đang nắm giữ sinh mạng của  mình trong tay. Anh bẻ nó làm đôi, rất cẩn thận ăn chúng. Chẳng mấy chốc cái bánh đã vào bụng... Lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một bên nhìn con như muốn đổ cái gì vào người con, đồng thời  lấy cái một cái gì. Tác giả đã khéo léo thể hiện  diễn biến tâm trạng của từng nhân vật trong đoạn văn này. Cha mẹ Thuyên thấy con ăn  bánh bao mà lòng đầy hy vọng, tin rằng con sẽ mau khỏi bệnh. Họ muốn truyền sự sống cho con cái, đồng thời diệt trừ căn bệnh lao khủng khiếp mà người dân gọi là “tứ chứng nan y” mà nếu mắc phải  chắc chắn sẽ chết. Cặp vợ chồng này cũng thật đáng thương vì tình mẫu tử phụ tử mà cái gì họ cũng dám làm, nhưng cũng đáng giận vì sự mê tín và ngu xuẩn. Quán trà nhà Lão Hoa là nơi gặp gỡ thường xuyên của những vị khách quen. Lượng thông tin ở đây không chỉ rất phong phú mà còn rất thực tế. Khách  gồm có ông râu bạc, ông Năm Gù, bác  Khang, một thanh niên trạc 20 tuổi... và một số người khác. Họ là một trong số đông đảo người  dân  Trung Quốc vào thời điểm đó. Tiệm trà của Lão Hoa giống như một xã hội Trung Quốc thu nhỏ.

Khách uống trà bàn tán xôn xao về hai sự kiện: Thứ nhất, chuyện vợ chồng lão Hoa đã mua được “thần dược”; Thứ hai là chuyện Hạ Du bị xử tử. “Thần dược” chữa “căn bệnh quái ác” mà người Trung Quốc thời bấy giờ vẫn tôn thờ chính là món bánh bao thấm máu của những tử tù. Bánh bao thì lúc nào cũng sẵn, nhưng  tử tù thì sao? Máu của người tử từ không phải lúc nào cũng có nhưng cũng không  hiếm, chỉ có thể dùng tiền  mua được, nhất là  đúng khi ngôi làng có người bị xử trảm. Lão Hoa có con bị lao nặng, may mắn gặp được dịp Hạ Du bị xử chém đầu. Cho nên ngày hôm đó trong quán trà Lão Hoa, người ta chỉ nói đến hai chuyện này cũng là điều dễ hiểu, vấn đề quan trọng ở đây là thái độ của họ đối với hai sự việc này như thế nào? Với sự kiện đầu tiên, mọi người đều chúc mừng cho Lão Hoa  may mắn mua được “thần dược” và hoàn toàn tin tưởng vào loại thuốc kỳ lạ này. Chỉ trong một đoạn văn ngắn nhưng lại có đến sáu lần lặp lại cụm từ: Cam đoan chắc chắn con ông sẽ được chữa khỏi bệnh. Nhưng đến sự việc thứ hai mọi người  tỏ ra khinh bỉ, chế nhạo và dùng những từ ngữ thậm tệ nhất để gọi Hạ Du: tội đồ, ác quỷ, thằng đần, thằng khốn nạn… Họ coi anh là kẻ ác, kẻ bị điên rồi. Họ cho rằng cái đầu của anh rơi xuống là đúng. Họ reo hò như  vừa hạ được một tên tội phạm.

Khi nghe  đến đoạn ông Nghĩa quản giáo đã đánh Hạ Du vì dám dụ ông làm giặc, họ phấn khích đến mức bàn tán, cười đùa. Đồng thời, họ ca ngợi chú Ba đã giao cháu mình cho chính quyền là một người khôn ngoan, không mất đầu che chở cho tên phản bội và được thưởng tận hai mươi lạng bạc. Thông qua cuộc trò chuyện trong phòng trà, Lỗ Tấn đã khéo léo bộc lộ trạng thái tinh thần đen tối của hầu hết người dân Trung Quốc lúc bấy giờ. Cách mạng Tân Hợi là một cuộc cách mạng không hoàn chỉnh. Nhân dân không được truyền bá, giác ngộ nên  coi những người  cách mạng là kẻ thù”, không hiểu mục tiêu cao cả của cách mạng, Lỗ Tấn rất ý thức được “căn bệnh tinh thần” của nhân dân Trung Quốc, đã đến lúc phải nhanh chóng tìm ra một loại thuốc "đặc biệt" để điều trị bệnh này. Nhưng phương thuốc này là gì?

Rồi cách mạng Trung Quốc cũng bắt đầu mò mẫm tìm đường, chính tác giả Lỗ Tấn cũng đang tìm đường, ông không đưa ra được giải pháp chính xác, nhưng ông có một ý tưởng, ông thấy được một tương lai qua một phần qua hình tượng nhân vật Hạ Du. Tuy tác giả không trực tiếp miêu tả Hạ Du nhưng nhân vật này có vai trò quan trọng là mắt xích  kết nối toàn bộ câu chuyện và là hệ quả dẫn đến các sự kiện phía sau của tác phẩm. Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng có bản lĩnh kiên cường, dám đương đầu với thử thách và sẵn sàng hy sinh. Cho đến giây phút cuối cùng, anh ấy đã truyền bá cuộc cách mạng. Hạ Du tỏ ra xót xa trước sự thiếu hiểu biết của mọi người. Nhưng rất tiếc, mọi người đều hiểu sai ý chí, mục đích và hành động của họ. Ông Ba chú ruột của anh nhưng lại nghĩ anh là giặc cho nên đã bán đứng anh để lấy tiền thưởng cũng coi như là giúp nước. Người ta thì chờ anh bị chặt đầu rồi lấy máu của bán với giá cao để cho những người cần thuốc chữa bệnh nặng.

Đối với những tên đao phủ tàn bạo và tham lam, máu của Hạ Du là  món hàng mang lại lợi nhuận béo bở. Đối với nhiều người, Hạ Du là đối tượng để  họ chế giễu và khinh miệt. Ngay cả mẹ anh cũng không hiểu được con trai mình đang nghĩ gì, đang làm gì. Khi xây dựng nhân vật Hạ Du, tác giả vừa thể hiện thái độ trân trọng, khâm phục, vừa gián tiếp phê phán những người làm nên Cách mạng Ngũ Tứ khi họ xuất thân từ quần chúng mà chưa để nhân dân vào trong cuộc chiến. Thật xót xa và đau xót khi nhìn hình ảnh người chiến sĩ cách mạng đã không hòa hợp với quần chúng nhân dân, còn bị nhân dân coi thường, chế nhạo. Do đó, sự hy sinh của họ dường như đã trở nên vô nghĩa. 

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

 

Trong phần cuối của truyện,  Lỗ Tấn miêu tả rất kĩ cảnh nghĩa địa: Khu đất dưới chân vốn là đất chỉ là công. Ở giữa là một con đường hẹp ngoằn ngoèo, thường bị người đi đường tắt giẫm đạp. Nó cũng là  ranh giới tự nhiên của nghĩa trang. Tù nhân bị chết thì nằm ở bên trái và nghĩa trang cho người chết nghèo, chết bệnh lại ở bên phải. Ở cả hai nơi, những ngôi mộ dày đặc, hết lớp này đến lớp khác, giống như những chiếc bánh ngọt của nhà giàu trong bữa tiệc sinh nhật. Hình ảnh con đường  ở đây không chỉ  là  ranh giới tự nhiên, mà  còn là ranh giới vô hình cho lòng người và những định kiến ​​xã hội. Cảnh nghĩa địa trong đoạn văn mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất là dư luận xã hội không phân biệt giữa  người  cách mạng hy sinh vì tổ quốc và tội phạm phản quốc. Như vậy, chiến sĩ cách mạng cũng bị coi là “giặc”. Thứ hai là số người chết trên máy chém hay trong tù bằng số người chết trong nghèo đói và bệnh tật. Hình ảnh những ngôi mộ được so sánh với những chiếc bánh bao trong ngày sinh nhật của bọn nhà giàu chính là sự mỉa mai thực tế nghiệt ngã và tàn khốc của xã hội phong kiến ​​Trung Quốc lúc bấy giờ.

Lỗ Tấn còn chuyển tải một thông điệp khác qua hình ảnh con đường  chia cắt nghĩa trang: ranh giới giữa người nghèo và người cách mạng rất gần. Những người  cách mạng là ai nếu không phải là những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột đến cùng cực không còn cách nào khác là phải tự vùng lên tự giải phóng cuộc đời mình? Nếu khi sống họ chưa thực sự hiểu nhau thì khi chết đi, nghĩa trang này là nơi để họ có thể gần nhau. Hai bà mẹ đến thăm mộ con trong dịp Tiết Thanh minh. Đó là bà Hoa, mẹ của Thuyên và  mẹ của Hạ Du - người chiến sĩ bị kết án tử hình. Bà Hoa đặt vật cúng trước mộ con trai, cầu nguyện và khóc thương cho con mình. Trong lúc đó một người phụ nữ khác cũng làm như vậy trước mộ con trai mình, chỉ có điều mộ Thuyên nằm bên phải lối đi còn người kia  nằm bên trái, gần như đối diện nhau. Hình ảnh này này  tác động  mạnh đến tư tưởng, tình cảm  của người đọc. Cả  người  chết và  người  sống đều là những nạn nhân đau khổ, đáng thương của xã hội phong kiến ​​Trung Quốc thối nát, trì trệ bấy giờ. Câu hỏi "Thế này là thế nào?" đầy băn khoăn và ngạc nhiên của mẹ Hạ Du khi thấy trên mộ con mình có những cánh hoa hồng trắng... không nhiều, xếp thành hình tròn, không đẹp lắm, nhưng lại được nhắc đến tận hai lần. Câu hỏi này nói lên những cảm xúc lẫn lộn của người mẹ về việc con bà tham gia cách mạng và cái chết bi thảm của con trai bà; đồng thời chứa đựng sự cay đắng, đau khổ và tự trách mình. Đây không chỉ là câu hỏi của riêng  mẹ Hạ Du mà của tất cả mọi người. Ai đã đến đây? Đó chắc hẳn là đồng chí của Hạ Du hoặc một người nào đó có cảm tình với cách mạng. Họ  bất chấp luật pháp hà khắc của chính quyền mà can đảm tiếp tục bày tỏ tình cảm chống lại cách mạng. Họ mới dám đến viếng mộ anh, và cung kính  đặt lên đó một vòng hoa tươi:... hoa trắng và hoa hồng chen nhau, nằm  trên ngôi mộ xếp lại. Một trong những người không có khả năng đó nhất chính là nhà văn Lỗ Tấn. Tác giả bày tỏ lòng kính trọng đối với các chiến sĩ của phong trào cách mạng Ngũ tứ. Ông đã đặt vòng hoa tưởng niệm bên mộ Hạ Du. Đồng thời, ông cũng đặt ra câu hỏi cấp thiết về một loại thuốc đặc biệt sẽ chữa khỏi căn bệnh trong tâm hồn nhận thức của người dân Trung Quốc khi đó. Phương tiện này chẳng qua là  con đường cách mạng, nhưng không phải là cách mạng nửa vời như cách mạng Tân Hợi, mà là một cuộc cách mạng triệt có cả sự góp sức của toàn thể quần chính nhân dân.

Ngoài ra, hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du chứng tỏ nhà văn Lỗ Tấn vẫn ấp ủ niềm hy vọng về một ngày mai tươi sáng, cho dù chính quyền vẫn đang ráo riết đàn áp những người tham gia ngày mùng bốn tháng năm. Điều này khiến cái chết của Hạ Du bớt phần bi thảm hơn vì dù sao cũng đã có người cảm động và phần nào hiểu được  ý nghĩa cái chết của anh. Nó cũng là niềm an ủi cho những chiến binh dũng cảm nhưng lại lang thang chiến đấu trong cô độc. Câu chuyện của "Thuốc" được thể hiện trong hai giai đoạn, mùa thu và mùa xuân. Hạ Du và Thuyên chết vào mùa thu, nghĩa là kết thúc sự lụi tàn. Hai cái chết của hai thanh niên có số phận khác nhau và cách  chết cũng không giống nhau. Nhưng ở mùa xuân, hai người mẹ cùng chung nỗi đau mất con đã tỏ ra đồng cảm với nhau. Đặt câu chuyện giữa hai mùa: một mùa suy tàn, một mùa thức tỉnh, nhà văn như khẳng định sự thay đổi của vạn vật, của con người chính là điều chắc chắn phải có. Tuy không có những biểu hiện rõ ràng nhưng với cách dịch chuyển thời gian đầy tính nghệ thuật và đầy ý nghĩa tượng trưng, ​​tác giả đã mang lại cho người đọc niềm tin, hy vọng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Truyện ngắn Thuốc tiêu biểu cho phong cách hiện thực  khách quan của Lỗ Tấn. Cốt truyện đơn giản, nhưng đặc sắc ở khả năng lựa chọn tình tiết, nghệ thuật sắp xếp thời gian và đặc biệt là khả năng tạo lập ngôn từ, hình ảnh hàm súc. Truyện mang một âm điệu  buồn chung thể hiện những suy tư, trăn trở, day dứt của Lỗ Tấn, người đầy  trách nhiệm với vận mệnh và tương lai của dân tộc mình. Tác phẩm này có thể được coi như một con dao  sắc bén trong tay của một người thầy thuốc tài năng, người đã dũng cảm cắt bỏ những khối u ác tính trong tinh thần của xã hội phong kiến cổ hủ để cứu lấy đất nước Trung Hoa. Tác giả Lỗ Tấn xứng đáng là cây đại thụ của nền văn học Trung Quốc, danh nhân văn hóa thế giới.

Tác phẩm Thuốc là một truyện ngắn mang những giá trị vượt thời đại của nhà văn Lỗ Tấn. Tác phẩm không chỉ vạch trần được sự thật thối nát của đất nước Trung Hoa thời phong kiến bán thuộc địa mà còn là lời cảnh tình cho ngàn đời sau về sự nguy hiểm của việc thiếu kiến thức. Hy vọng các bài phân tích bài Thuốc trên có thể giúp các em hiểu thêm về tác phẩm. Hãy truy cập Vuihoc mỗi ngày để có thể tìm thêm nhiều bài phân tích hay nữa nhé.

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner afterpost tag lớp 12
| đánh giá
Hotline: 0987810990